• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VII - Tập 1

    PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH

  • Tác giả: Hộ Pháp

 
 

3- 10 Đề Mục-Thiền-Định Niệm-Niệm (Anussati)

 

Anussatinghĩa là niệm-niệm liên-tục, có chi pháp là saticetasika: niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm10 đề-mục-thiền-định niệm-niệm làm đối-tượng.

 

 Anussati: niệm-niệm có 10 đề-mục-thiền-định:

 

1- Buddhānussati: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật,

2- Dhammānussati: Đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp

     3- Saṃghānussati: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng,

4- Sīlānussati: Đề-mục niệm-niệm giới của mình,   

5- Cāgānussati: Đề-mục niệm-niệm sự bố-thí của mình,  

6- Devatānussati: Đề-mục niệm-niệm 5 pháp chư thiên có nơi mình,

7- Upasamānussati: Đề-mục niệm-niệm thật-tánh tịch tịnh Niết-bàn,

8- Maraṇānussati: Đề-mục niệm-niệm sự chết,

9- Kāyagatāsati: Đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân của mình

10- Ānāpānassati: Đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra. 

 

Đó là 10 đề-mục-thiền-định niệm-niệm (anussati) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

 

3.1- Buddhānussati: Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật

 

 Buddhānussatiđề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật. Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục Buddhānussati: đề-mục-thiền-định niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật, có niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm9 ân-Đức-Phật làm đối-tượng. 

 

Thực-Hành Đề-Mục Buddhānussati

 

 Pháp-hành-thiền-định đề-mục-thiền-định niệm-niệm

9 ân-Đức-Phật, như Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Dhajaggasutta([1]) phương-pháp niệm 9 ân-Đức-Phật như sau

 

“Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Vijjā-caraṇasampanno Sugato Lokavidū Anuttaro purisadam-masārathi Satthā devamanussānaṃ Buddho Bhagavā.”    

 

Ý Nghĩa 9 Ân-Đức-Phật

 

1- Arahaṃ: Đức-Thế-Tôn có ân-đức A-ra-haṃ là Đức A-ra-hán có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của Chư-thiên, Phạm-thiên, nhân-loại.

 

2- Sammāsambuddho: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sam-mā-sam-bud-dho là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõithế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

 

3- Vijjācaraṇasampanno: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Vij-jā-ca-ra-ṇa-sam-pan-no là Đức-Minh-Hạnh-Túc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh, và 15 đức-hạnh cao thượng.

 

4- Sugato: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Su-ga-to là Đức-Thiện-Ngôn thuyết pháp chân-lý tế độ chúng-sinh chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài thật sự trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

 

5- Lokavidū: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Lo-ka-vi-dū là Đức-Thông-Suốt-Tam-tổng-pháp thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.

 

6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức-Thế-Tôn có ân-đức A-nut-ta-ro pu-ri-sa-dam-ma-sā-ra-thi là Đức-Vô- Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh cải tà quy chánh, bỏ ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân trở thành bậc Thánh-nhân.

 

7- Satthā devamanussānaṃ: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sat-thā-de-va-ma-nus-sā-naṃ là Đức-Thiên-Nhân-Sư, Đức Thầy của Chư-thiên, Phạm-thiên, nhân-loại.

 

8- Buddho: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Bud-dho là Đức-Phật chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõithế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-Lưu, hoặc bậc Thánh-Nhất-Lai, hoặc bậc Thánh-Bất-Lai, hoặc bậc Thánh-A-ra-hán tùy theo năng lực các pháp-hạnh Ba-la-mật và 5 pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

 

9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Bha-ga-vā là Đức-Thế-Tôn có 6 Đức đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật của Ngài.

 

9 ân-Đức-Phật này chỉ có nơi chư Phật-Chánh-Đẳng- Giác mà thôi. Ngoài chư Phật ấy ra, không có một Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Chư-thiên, hoặc Phạm-thiên nào có 9 ân-Đức-Phật này được. 

Thật vậy, chư Phật-Chánh-Đẳng-Giác quá-khứ, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác hiện-tại, chư Phật-Chánh-Đẳng-Giác vị-lai đều có đầy đủ 9 ân-Đức-Phật này.

 

Giảng Giải Về 9 Ân-Đức-Phật

 

Trong bộ Chú-giải giảng giải 9 ân-Đức-Phật được tóm lược sau đây:

1- Ân-Đức-Phật Arahaṃ
 
Itipi so Bhagavā Arahaṃ.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Á-rá-hăm)

 
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên, ...

- Arahaṃ: Do đó Đức-Thế-Tôn có Ân đức A-ra-hán.

 

 Arahaṃ Có 5 Ý Nghĩa

 

- Arahaṃ có nghĩa là xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường.

- Arahaṃ có nghĩa là đã xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não.

- Arahaṃ có nghĩa là đã diệt-đoạn-tuyệt mọi kẻ thù là phiền-não.

- Arahaṃ có nghĩa là đã phá hủy vòng luân hồi trong 3 giới 4 loài.

- Arahaṃ có nghĩa là không bao giờ làm điều ác ở nơi kín đáo.

Giải thích:
 

1- Arahaṃ có ý nghĩa bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường như thế nào?

 

Đức-Thế-Tôn là Bậc-Tối-Thượng độc nhất vô nhị, trong muôn ngàn thế giới chúng-sinh. Thật vậy, Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 5 đức: giới-đức, định-đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát-tri-kiến-đức hoàn toàn trong sạch thanh tịnh.

Ngoài Đức-Thế-Tôn ra, trong toàn thể chúng-sinh không có một người nào, một Sa-môn, Bà-la-môn, Chư-thiên, Phạm-thiên… nào có đầy đủ 5 đức ấy như Ngài.

Chỉ có Đức-Thế-Tôn mới có đầy đủ 5 đức ấy mà thôi, cho nên, Đức-Thế-Tôn là Bậc-Tối-Thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, là Bậc xứng đáng cho chúng-sinh lễ bái cúng dường. Chúng-sinh lễ bái cúng dường rồi, sẽ được quả báu lớn, sự lợi ích lớn, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc cao thượng lâu dài. Như Đức-Phật dạy:

 

- Này chư Tỳ-khưu! Bậc cao thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, để tế độ chúng- sinh, nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên. Bậc-Tối-Thượng độc nhất ấy là ai?

 

Bậc-Tối-Thượng độc nhất ấy chính là Như-Lai, Đức A-ra-hán, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

 

- Này chư Tỳ-khưu! Như-Lai là Bậc-Tối-Thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên”(1)

 

Vì vậy, Đức-Thế-Tôn có Ân đức Arahaṃ với ý nghĩa bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả chúng-sinh.

 

2- Arahaṃ có ý nghĩa xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não là thế nào?

 
Phiền-não dịch từ tiếng Pāḷi: Kilesa.

Kilesa: Phiền-não là những bất-thiện-tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm làm cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân, phiền-não còn làm cho tâm, tâm sở bị ô nhiễm, khiến tạo nghiệp do thân, khẩu, ý.

 
Phiền-Não Có 10 Loại
 
1- Tham (lobha)tham tâm-sở  đồng sinh với 8 tham tâm có trạng-thái tham muốn, hài lòng trong đối tượng.
 

2- Sân (dosa)sân tâm-sở đồng sinh với 2 sân tâm có trạng-thái sân hận, không hài lòng trong đối tượng.

 

3- Si (moha)si tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái si-mê, không hiểu biết thật-tánh của các pháp.

 

4- Tà-kiến (diṭṭhi)tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham tâm hợp với tà kiến, có trạng-thái thấy sai, chấp lầm nơi đối tượng.

 

5- Ngã-mạn (māna)ngã-mạn tâm-sở đồng sinh với 4 tham tâm không hợp với tà-kiến, có trạng-thái so mình với người: hơn người, bằng người, kém thua người.

 

6- Hoài-nghi (vicikicchā)hoài-nghi tâm-sở đồng sinh với si tâm hợp với hoài-nghi, có trạng-thái hoài- nghi nơi các đối tượng.

 

7- Buồn-chán (thīna)buồn-chán tâm-sở đồng sinh với 4 tham tâm và 1 sân tâm gồm có 5 bất-thiện-tâm cần tác-động, có trạng-thái không hăng hái, buông bỏ đối tượng.

 

8- Phóng-tâm (uddhacca)phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái không an trụ nơi đối tượng.

 

9- Không-biết-hổ-thẹn (ahirika)không-hổ-thẹn tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái tự mình không biết hổ thẹn tội lỗi, khi hành ác.

10- Không-biết-ghê-sợ (anottappa) không-ghê-sợ tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái không biết ghê sợ tội lỗi, khi hành ác.

 

Đó là 10 loại phiền-não, mỗi khi có phiền-não nào phát sinh ở bất-thiện-tâm nào, thì không những làm cho tâm bị ô nhiễm, nóng nảy, mà còn làm cho thân cũng nóng nảy, khó chịu, mặt mày mất vẻ tự nhiên.

 
Tính Chất Của Phiền-Não Có 3 Loại
 

* Vītikkamakilesa là phiền-não loại thô, được biểu hiện ra ở thân hành ác, khẩu nói ác. Phiền-não loại thô này có thể diệt bằng pháp-hành-giới. Hành giảcó tác-ý thiện-tâm (cetanākusala) tránh xa mọi hành ác, giữ gìn giới cho thân và khẩu được trong sạch, thì diệt-từng-thời phiền-não (tadaṅgappahāna) loại thô này.

 

* Pariyuṭṭhānakilesa là phiền-não loại trung phát sinh ở trong tâm, đó là 5 pháp-chướng-ngại(1), làm cho tâm cảm thấy khó chịu, khổ tâm, ngăn cản mọi thiện-pháp.

 

Phiền-não loại trung này có thể diệt bằng pháp-hành-thiền-định.Khi hành giả chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới, nhờ có 5 chi thiền có khả năng diệt bằng cách chế-ngự phiền-não (vikkhambhanappahāna) loại trung này. 

 

* Anusayakilesa là phiền-não cực kỳ vi tế ẩn tàng ngấm ngầm ở trong tâm, đó là 7 pháp phiền-não ngủ ngầm trong tâm([2]) không hiện rõ.

 

Phiền-não loại cực kỳ vi tế này có thể diệt bằng pháp-hành-thiền-tuệ. Khi hành giả chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ mới có thể diệt-đoạn-tuyệt (samucchedappahāna) được phiền-não loại cực kỳ vi tế này.

 

Phiền-Não Tính Rộng Có 1.500 Loại

 

Khi 10 loại phiền-não kể trên liên quan đến đối tượng làm nhân duyên để phát sinh phiền-não, tính rộng có 1.500 loại phiền-não. Cách tính như sau:

 
75 pháp có thể làm đối tượng của phiền-não:

- Tâmtính là 1 pháp (vì cùng có một trạng-thái biết đối tượng).

- Tâm-sởtính 52 pháp (mỗi tâm sở có mỗi trạng-thái riêng biệt).

- Sắc-pháp chỉ có 18 sắc-pháp hiện hữu thật rõ ràng, và 4 pháp trạng-thái của sắc-pháp.

 

Như vậy, gồm có (1 + 52 + 18 + 4) = 75 pháp có thể làm đối tượng của phiền-não.

 

75 pháp này là đối tượng của phiền-não ở bên trong mình, là kẻ thù bên trong.

 

75 pháp này cũng là đối tượng của phiền-não ở bên ngoài mình, là kẻ thù bên ngoài.

 

Đối tượng của phiền-não bên trong mình có 75 pháp và bên ngoài mình có 75 pháp gồm cả thảy 150 pháp, nhân với 10 loại phiền-não (tham, sân, si, tà-kiến, ngã- mạn, hoài-nghi, buồn-chán, phóng-tâm, không-hổ-thẹn, không-ghê-sợ) thành 1.500 loại phiền-não. 

 

Thật ra, 10 loại phiền-não trong 12 bất-thiện-tâm mới làm cho tâm bị ô nhiễm, làm cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân.

 

Phiền-não làm nhân duyên trực tiếp tạo mọi ác-nghiệp và làm nhân duyên gián tiếp tạo mọi thiện-nghiệp trong tam-giới (do vô-minh làm duyên, nên tạo ác-nghiệp, thiện-nghiệp), để rồi cho quả của nghiệp, dẫn dắt trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới4 loài.

 

Nghiệpnày bị dẫn dắt cho quả tái sinh kiếp sau do bởi tham-ái (taṇhā).

 

Tham-ái đó là tham tâm-sở (lobhacetasika).

 
Tham-ái có tất cả 108 loại.
 

Cách tính 108 loại tham-ái theo 3 tính-chất, 6 đối- tượng, 2 bên, 3 thời như sau:

 
* 3 Tính Chất Của Tham-Ái:
 

 - Dục-ái: Tham-ái trong 6 đối tượng: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

 

- Hữu-ái: Tham-ái trong 6 đối tượng hợp với thường-kiếntham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.

 

- Phi-hữu-ái: Tham-ái trong 6 đối tượng hợp với đoạn-kiến.

 
* 6 Đối Tượng Của Tham-Ái:
 
1- Sắc-ái: Sắc đẹp là đối tượng của tham-ái.
2- Thanh-ái: Thanh hay là đối tượng của tham-ái.
3- Hương-ái: Hương thơm là đối tượng của tham-ái.
4- Vị-ái: Vị ngon là đối tượng của tham-ái.
5- Xúc-ái:Xúc êm ấm là đối tượng của tham-ái.
6- Pháp-ái: Pháp vừa lòng là đối tượng của tham-ái.
 
* 2 Bên:
 

1- Bên trong: Tham-ái phát sinh bên trong tâm của mình.

2- Bên ngoài: Tham-ái phát sinh bên ngoài mình (của  người khác).
 
* 3 Thời:
 

1- Thời quá-khứ: Tham-ái đã phát sinh trong thời quá khứ

2- Thời hiện-tại:Tham-ái đang phát sinh trong thời hiện-tại.

3- Thời vị-lai: Tham-ái sẽ phát sinh trong thời vị-lai.
 

Như vậy, tham-ái có 3 tính-chất nhân với 6 đối- tượng, nhân với 2 bên (trong và ngoài), nhân với 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) (3 x 6 x 2 x 3) = 108 loại tham-áiNhân-sinh-Khổ-đế.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền-não, 108 loại tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā)(1) do tích lũy từ vô số kiếp ở quá-khứ, tại dưới cội Đại-Bồ-Đề, vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, không thầy chỉ dạy, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng- Giác (Sammāsambuddha), có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, độc nhất vô nhị.

 

Vì vậy, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃvới ý nghĩa xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não, mọi tham-áitiền- khiên-tật không bao giờ phát sinh được nữa.

 

3- Arahaṃ có ý nghĩa diệt-đoạn-tuyệt mọi kẻ thù là phiền-não như thế nào?

 

Đức-Phật dạy: Kẻ thù nguy hiểm chính là phiền-não có 1.500 loại của mình”.

 

Sở dĩ gọi phiền-nãokẻ thùlàvì kẻ thù ở trong đời này thường tìm cơ hội làm khổ mình, sát hại mình, không có một kẻ thù nào mong cho mình được an-lạc. Cũng như vậy, phiền-não phát sinh trong 12 bất-thiện-tâm làm cho mình khổ-tâm, khổ-thân, nóng nảy, khó chịu và còn khiến mình tạo mọi ác-nghiệp, làm khổ chúng-sinh khác, để rồi phải chịu quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai.

 

Sự thật, chỉ có phiền-não bên trong 12 bất-thiện-tâm của mình, mới trực tiếp làm khổ mình mà thôi, còn phiền-não bên ngoài mình, của người khác không trực tiếp làm khổ mình được, nếu mình không tiếp nhận.

 
 

Ví dụ: Người ta mắng chửi, đánh đập mình, nếu mình có tâm nhẫn-nại, không sân-hận, phiền-não không sinh, thì mình không bị khổ-tâm.

 

Nếu có phiền-não sân-hận phát sinh, thì chính phiền-não bên trong tâm mình làm cho mình khổ-tâm, hoàn toàn không phải phiền-não bên ngoài mình, của người khác làm cho mình khổ-tâm được.

 

Còn phần khổ-thân thuộc về quả của nghiệp, không một ai tránh khỏi, dù là Đức-Phật hay chư Bậc Thánh-A-ra-hán. Đức-Phật và chư Bậc Thánh-A-ra-hán tuy đã diệt-đoạn-tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền-não rồi, hoàn toàn không còn khổ-tâm nữa, nhưng còn có sắc-thân, nên vẫn còn có khổ-thân cho đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Khi ấy, mới thật sự giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã diệt-đoạn-tuyệt tất cả mọi kẻ thù là 1.500 loại phiền-não, bằng 4 Thánh-đạo-tuệ tại dưới cội Đại-Bồ-đề, vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama, độc nhất vô nhị.

 

Vì vậy, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃvới ý nghĩa diệt-đoạn-tuyệt mọi kẻ thù là phiền-não không còn dư sót.

 

4- Arahaṃ có ý nghĩa phá hủy vòng luân hồi trong 3 giới 4 loài như thế nào?

 

Vòng-luân-hồi đó chính là pháp “Thập-nhị-duyên- sinh” (Paṭiccasamuppāda) có 12 chi pháp:

 
- Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh.
- Do hành làm duyên, nên thức sinh.
- Do thức làm duyên, nên danh-sắc sinh
- Do danh-sắc làm duyên, nên lục-nhập sinh.
- Do lục-nhập làm duyên, nên lục-xúc sinh.
- Do lục- xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh.
- Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh.
- Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh.
- Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu sinh.
- Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh sinh.
- Do tái-sinh làm duyên, nên lão, tử… sinh.
 

Vòng-luân-hồi-thập-nhị-duyên-sinh có 12 chi pháp, từ vô-minh đến lão, tử… Mỗi chi pháp là quả của pháp trước, rồi làm nhân của pháp sau, trở nên nhân-quả-liên-hoàn với nhau như vậy. Cho nên, nhân quả trong thập-nhị-duyên-sinh, không thuần là nhân, là quả, bởi vì quả của pháp trước, rồi lại làm nhân của pháp sau, cứ tiếp diễn như vậy, trở thành cái vòng không có chỗ bắt đâu, cũng không có chỗ cuối cùng.  

 

Nếu chỉ riêng rẻ mỗi chi pháp thì không thể gọi là nhân, cũng không thể gọi là quả.

 

(Ví dụ: Anh B là con của ông A, cũng là cha của bé C. Nếu chỉ riêng một mình anh B thì không thể gọi là con, cũng không thể gọi là cha).

 

Cho nên, vòng-luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh theo định luật nhân-quả-liên-hoàn trong 12 chi pháp nối dính vào nhau thành vòng không có điểm bắt đầu, cũng không có điểm cuối cùng. 12 chi pháp trong vòng-luân-hồi-thập-nhị-duyên-sinh phân tích nhânquả theo 3 thời: 

 
* Vô-minh, hànhnhân quá-khứ.
 

* Thức, danh-sắc, lục-nhập, lục-xúc, lục-thọquả hiện-tại.

 

* Tham-ái, thủ, hữu nhân hiện-tại.

 

* Sinh, già, chếtquả vị-lai.

 

Đối với chúng-sinh còn vô-minhtham-ái, thì vô- minh không phải là pháp bắt đầu, và lão, tử, ... cũng không phải là pháp cuối cùng.

 

Thật ra, vô-minh chỉ là nhân-duyên quá-khứ mà thôi, không phải là nhân-duyên bắt đầu, vì vô-minh còn là quả của 4 pháp-trầm-luân. Như Đức-Phật dạy:

 
“Āsavasamudayā avijjāsamudayo…”([3]).
 

“Do có sự sinh của 4 pháp-trầm-luân, nên có sự sinh của vô-minh ...”

 

lão, tử … chỉ là pháp cuối cùng của mỗi kiếp mà thôi, bởi vì chúng-sinh còn vô-minh và tham-ái sau khi chết, thì nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp sau như thế nào, chỉ tuỳ thuộc vào quả của nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.

 
Vòng-Tam-Luân
 

Vòng-luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh có 12 chi pháp này được phân chia theo tam-luân, luân chuyển theo chiều hướng nhất định như sau:

1- Phiền-não-luân: Gồm có 3 chi pháp: vô-minh, lục- ái, tứ-thủ.

2- Nghiệp-luân: Gồm có 2 chi pháp: hành, nghiệp-hữu[4].

3- Quả-luân: Gồm có 8 chi pháp: Cảnh-hữu, thức, danh-sắc, lục-nhập, lục-xúc, lục-thọ, sinh, lão tử...

 

Vòng-luân-hồi “Thập-nhị-duyên-sinh” luân chuyển theo 3 luân: Phiền-não-luân → Nghiệp-luân → Quả- luân → Phiền-não-luân… từ kiếp này sang kiếp khác tiếp nối với nhau, kể từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại, và sẽ còn những kiếp vị-lai, đối với chúng-sinh còn phiền-não-luân.

Biểu Tượng Vòng-Luân-Hồi Và Tam-Luân

 
 Giải Thích Tam-Luân
 

1- Phiền-Não-Luân Tạo Nghiệp-Luân:

 

Chúng-sinh còn vô-minh, lục-ái, tứ-thủ làm nhân duyên khiến tạo nên bất-thiện-nghiệp, thiện-nghiệp do thân, khẩu, ý.

 

* Phiền-Não Làm Nhân Duyên Tạo Bất-Thiện-Nghiệp

 

Số chúng-sinh do vô-minh, không biết rõ bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) cho quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp trong vị-lai. Và cũng có số chúng-sinh, tuy có hiểu biết bất-thiện-nghiệp cho quả khổ như vậy, nhưng vô-minh, tham-áicó nhiều năng lực quá, nên xui khiến tạo mọi bất-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý như sau:

 

- Thân hành ác như: Sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm. 

 

- Khẩu nói ác như: Nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.

 

- Ý nghĩ ác như: Tham-lam, thù-hận, tà-kiến.

* Phiền-Não Làm Nhân Duyên Tạo Thiện-Nghiệp

 

Số chúng-sinh do vô-minh, không biết rõ chân-lý tứ Thánh-đế, không biết rõ ngũ-uẩn là khổ thật. Vì vậy, muốn hưởng sự an-lạc tạm thời, nên tạo các thiện-nghiệp:

 

- Dục-giới-thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi dục-giới.

 

- Sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi trời sắc giới.

 

- Vô-sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi trời vô-sắc-giới.

 

Sự an-lạc trong các cõi tam-giới này không phải là thật, không phải cõi vĩnh hằng, chỉ có tính cách an-lạc tạm thời trong thời gian lâu dài hoặc ngắn ngủi tùy theo năng lực quả của thiện-nghiệp ấy mà thôi.

 

Như vậy, gọi là phiền-não-luân khiến tạo nghiệp-luân.

 
2- Nghiệp-Luân Cho Quả-Luân
 

Chúng-sinh còn phiền-não khiến đã tạo bất-thiện-nghiệp, thiện-nghiệp, nếu khi nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả, chúng-sinh ấy thọ quả của nghiệp ấy.

 

* Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại thì phải chịu quả xấu như sau:

 

- Nhãn-thức-tâm nhìn thấy những hình ảnh xấu.

- Nhĩ-thức-tâm nghe những âm thanh dở.

- Tỷ-thức-tâm ngửi những mùi hôi hám.

- Thiệt-thức-tâm nếm những vị dở.

- Thân-thức-tâm xúc giác những vật thô cứng.

- Ý-thức-tâm được biết điều khổ não.

 

* Nếu bất-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh 1 trong 4 cõi ác giới: địa-ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh tùy theo năng lực quả của bất-thiện-nghiệp ấy, chúng-sinh ấy phải chịu quả khổ trong cõi ác giới, cho đến khi mãn quả của bất-thiện-nghiệp ấy (chết), rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

 

* Nếu thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại thì được hưởng quả tốt như sau:

 

- Nhãn-thức-tâm nhìn thấy những hình ảnh đẹp.

- Nhĩ-thức-tâm nghe những âm thanh hay.

- Tỷ-thức-tâm ngửi những mùi thơm tho.

- Thiệt-thức-tâm nếm những vị ngon.

- Thân-thức-tâm xúc giác những vật mềm mại.

- Ý-thức-tâm được biết điều tốt lành.

 

* Nếu dục-giới thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái sinh kiếp-sau làm người như thế nào, hoặc làm Chư-thiên cõi nào trong 6 cõi trời dục-giới thì hoàn toàn tuỳ theo quả của thiện-nghiệp ấy.

 

 Người hoặc chư-thiên ấy hưởng sự an-lạc trong cõi ấy cho đến hết tuổi thọ (chết), rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

 

* Sắc-giới thiện-nghiệp chắc chắn cho quả tái sinh kiếp sau làm Phạm-thiên cõi nào trong 16 cõi trời sắc-giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành-giả.

 

Vị Phạm-thiên ấy hưởng sự an-lạc vi tế hơn ở cõi dục-giới cho đến hết tuổi thọ của cõi trời sắc-giới ấy (chết), rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

 

* Vô-sắc-giới thiện-nghiệp chắc chắn cho quả tái sinh kiếp sau làm Phạm-thiên cõi nào trong 4 cõi trời vô-sắc-giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành giả.

 

Vị Phạm-thiên ấy hưởng sự an-lạc vi tế hơn ở cõi sắc-giới cho đến hết tuổi thọ của cõi trời vô-sắc-giới ấy, rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng- sinh ấy.

 
3- Quả-Luân Sinh Phiền-Não-Luân
 

Quả-luân là sự hiện hữu của chúng-sinh trong tam giới:

- Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong cõi dục-giới và cõi sắc-giới.

 

- Chúng-sinh có tứ-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn, (không có sắc-uẩn) trong cõi vô-sắc-giới.

 

- Chúng-sinh có nhất-uẩn là sắc-uẩn (không có 4 danh-uẩn), trong cõi sắc-giới Vô-Tưởng-Thiên.

 

Nếu các chúng-sinh này chưa diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, vô-minh, tham-ái… khi có cơ hội thì phiền-não phát sinh làm nhân duyên khiến tạo nên thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp, rồi trở lại vòng-tam-luân chuyển biến không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, trong vòng-tử-sinh-luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Tam-luân này chuyển biến theo định luật nhân-quả như sau:

 

Phiền-não-luânnhân, nghiệp-luânquả:nghiệp-luân nhân, quả-luânquả: quả-luânnhân, phiền-não-luânquả cứ tiếp diễn như vậy theo tam-luân trong vòng-luân-hồi-thập-nhị-duyên-sinh.

* Đức-Thế-Tôn đã diệt-đoạn-tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền-não rồi, nhổ tận gốc rễ của vô-minh tham-ái bằng 4 Thánh-đạo Tuệ rồi.

 

Cho nên vòng tam-luân bị tan rã, tách rời không còn luân chuyển được nữa, do diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não-luân.

 

Vì vậy, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃvới ý nghĩa phá hủy vòng sinh-tử-luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

 

5- Arahaṃ có ý nghĩa không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo như thế nào?

 

Nơi kín đáo là nơi không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không có một ai có thể nghi ngờ. Như vậy, đối với hạng phàm-nhân còn mọi phiền-não, nơi kín đáo ấy là nơi dễ hành-ác do thân, khẩu, ý, vì không sợ ai chê trách.  

 

Đức-Thế-Tôn là Bậc đã diệt-đoạn-tuyệt tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi bất-thiện-tâm không còn nữa, nên thân, khẩu, ý của Ngài lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch thanh tịnh. Cho nên, dầu ở nơi kín đáo, không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không một ai có thể nghi ngờ, thì Đức-Thế-Tôn cũng không bao giờ hành ác do thân, khẩu, ý nữa.

 

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Arahaṃ với ý nghĩa không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo.

 

2- Ân-Đức-Phật Sammāsambuddho

 

Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho.

(Cách đọc:Í-tí-pí xô phá-gá-voa Xăm-ma-xăm-bút-thô)

 
Nghĩa:
 
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, độc nhất vô nhị.

 
- Sammāsambuddho: Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
 
 
Chân-Lý Tứ Thánh-Đế
 

- Khổ-Thánh-đế: Đó là ngũ uẩn, sắc-pháp, danh-pháptrong tam giới là pháp nên biết. 

 

- Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế: Đó là tham-ái là pháp nên diệt.

 
- Diệt-Khổ-Thánh-đế: Đó là Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ. 
 

- Pháp-hành-dẫn-đến-diệt-Khổ-Thánh-đế: Đó là bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định là pháp nên tiến-hành để chứng ngộ Niết-bàn, diệt Khổ-Thánh-đế. 

 

Đức-Thế-Tôn đã tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, độc nhất vô nhị.

 

Đức-Thế-Tôn chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-việt suy xét pháp “Thập-nhị-duyên-sinh và thập-nhị-nhân-diệt” như:

 Avijjā paccayā saṅkhārā”…

“Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh”...
 

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ Khổ-Thánh-đế Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế.

 

Và trí-tuệ siêu-việt suy xét pháp “Thập nhị nhân diệt” như:

 

“Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhārā nirodho,..

 

“Do diệt tận vô-minh, tham-ái không còn dư sót, nên diệt các hành”…

 

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ Diệt-Khổ-Thánh-đế Pháp hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế.

 

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.  

 

Điều này Đức-Phật đã khẳng định với nhóm 5 Tỳ-khưu trong bài kinh Chuyển Pháp Luân(1)rằng:

 

- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí- tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ-siêu-việt hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.

 

- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai khẳng định, truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, Chư-thiên, ma vương, Phạm-thiên cả thảy”. 

 

Như vậy, Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên  trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên Ngài có ân-đức Sammāsambuddho: Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

 
Ñeyyadhamma
 

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác đặc biệt biết đủ 5 pháp Ñeyyadhamma:

- Saṅkhāra: Tất cả pháp hành cấu tạo.
- Vikāra: Sắc-pháp, danh-pháp biến đổi.

- Lakkhaṇa: Trạng-thái sinh, trụ, diệt của sắc-pháp, danh-pháp.

- Paññattidhamma: Chế-định-pháp: Chế định ngôn ngữ, để thuyết giảng chánh-pháp tế độ chúng-sinh.

- Nibbāna: Niết-bàn, pháp diệt Khổ-Thánh-đế.
 

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác hoặc Đức-Phật-Toàn- Giác có đầy đủ 5 pháp ấy, nên Ngài có khả năng chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh(1).

 
Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Sammāsambuddho:Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
 

3- Ân-Đức-Phật Vijjācaraṇasampanno

 
Itipi so Bhagavā vijjācaraṇasampanno.

(Cách đọc: í-tí-pí xô phá-gá-voa vít-cha-chá-rá-ná-xăm-păn-nô).

 
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh

và 15 Đức-hạnh cao thượng,

- Vijjācaraṇasampanno:Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân- đức Minh-Hạnh-Túc.

Tam-Minh

1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa)là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền kiếp từ hằng trăm kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp. Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không có giới hạn. (còn Đức-Phật Độc-Giác, bậc Thánh-Thanh-văn-giác có giới hạn)

 Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ biết rõ tiền kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, thực-hành pháp hạnh ba-la-mật,… tuổi thọ… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.

 

2- Thiên-nhãn-minh(Dibbacakkhuñāṇa) là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh như mắt của Chư-thiên, Phạm-thiên.

 

Thiên-nhãn-minh có 2 loại:

 

 - Tử-sinh-minh (Cutūpapātañāṇa) là trí-tuệ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng-sinh. Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác có Tử-sinh-minh này biết rõ chúng-sinh sau khi chết rồi, nghiệp nào cho quả tái sinh trong cảnh giới nào.

 

- Vị-lai-kiến-minh(Anāgataṃsañāṇa) là trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của chúng-sinh. Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác dùng vị-lai-kiến-minh này để thọ ký chúng-sinh trong những kiếp vị-lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật-Độc-Giác, bậc Thánh- Thanh-văn-giác …

 

3- Trầm-luân-tận-minh (Āsavakkhayañāṇa) là trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ, diệt-đoạn-tuyệt được 4 pháp phiền-não-trầm-luân (āsava) không còn dư sót, đồng thời Đức-Thế-Tôn tận diệt được tất cả mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) do tích lũy từ vô lượng kiếp trong quá-khứ.

 
 Bát-Minh

1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa).

2- Thiên-nhãn-minh (Dibbacakkhuñāṇa).
3- Trầm-luân-tận-minh (Āsavakkhayañāṇa).
 

4- Thiền-tuệ-minh (Vipassanāñāṇa)trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giớithấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp sắc-pháp, và trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ và Niết-bàn.

 

5- Tha-tâm-minh (Cetopariyañāṇa) là trí-tuệ có khả năng biết đến tâm của người khác, chúng-sinh khác đang nghĩ gì, với thiện tâm hoặc bất thiện tâm,...

 

6- Hóa-tâm-minh (Manomayiddhiñāṇa)là trí-tuệ có khả năng hóa thân khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền định.

 

Như trường hợp Đức-Phật-Gotama thuyết tạng Vi- Diệu-Pháp vào hạ thứ bảy tại cung Tam-thập-Tam-thiên suốt ba tháng. Mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức-Phật hóa-thân khác như Đức-Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Đức-Phật thật ngự đi khất thực ở Bắc-câu-lưu-châu. Khi độ ngọ xong, Đức-Phật ngự trở lại cung trời thay thế Đức-Phật hóa-thân ấy.

 

7- Thiên-nhĩ-minh (Dibbasotañāṇa)là trí-tuệ có khả năng nghe được mọi thứ tiếng người, tiếng súc-sinh, tiếng Chư-thiên gần xa, do năng lực thiền định, như tai của Chư-thiên, Phạm-thiên.

 

 8- Đa-dạng-minh (Iddhividhañāṇa)là trí-tuệ có khả năng biến hóa nhiều phép thần thông khác nhau, do năng lực thiền định, như một người hóa thành nhiều người, tàng hình không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên hư không, …

 
15 Đức-Hạnh Cao Thượng
 

1- Giới đức:Hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.

 

2- Thu thúc lục căn thanh tịnh: Thu thúc khi thấy bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, tiếp xúc bằng thân, suy nghĩ bằng ý hoàn toàn thanh tịnh.

3- Biết tri-túc trong vật thực: Nhận vật thực vừa đủ, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4 - 5 miếng nữa đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không dùng no quá.

4- Tinh-tấn-tỉnh-thức: Ngày, đêm tinh tấn hành phận sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm có 3 canh: canh đầu (khoảng từ 18-22 giờ): Ngồi hành đạo, đi kinh hành; canh giữa(khoảng từ 22 đến 2 giờ khuya): Nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ, trí-tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy lúc cuối canh giữa; canh chót (khoảng từ 2 giờ đến rạng đông): Hành đạo, đi kinh hành,… Gọi là tinh tấn luôn luôn tỉnh thức.

5- Đức tin: Có đức tin không lay chuyển,

6- Trí nhớ: Thường có trí nhớ,

7- Hổ thẹn: Biết hổ thẹn tội lỗi, 

8- Ghê sợ: Biết ghê sợ tội lỗi, 

9- Đa văn túc trí: Học nhiều hiểu rộng tất cả các pháp,

10- Tinh tấn: Có tâm tinh tấn không ngừng nghỉ,

11- Trí-tuệ: Có trí-tuệ hiểu biết rõ tất cả các pháp,

12- Đệ nhất thiền: Có đệ nhất thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

13- Đệ nhị thiền:Có đệ nhị thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

14- Đệ tam thiền: Có đệ tam thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

15- Đệ tứ thiền: Có đệ tứ thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

 

Đó là 15 Đức-hạnh cao thượng.

 

Đức-Thế-Tôn có trọn đủ Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức-hạnh cao thượng hợp với trí-đại-bi tế độ chúng-sinh có hữu duyên nên tế độ giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Cho nên, Đức-Thế-Tôn ân-đức Vijjācaraṇa-sampanno: Đức-Minh-Hạnh-Túc.

 
4- Ân-Đức-Phật Sugato
 
Itipi so Bhagavā Sugato.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Xú-gá-tô)

 
Nghĩa:
 
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc thuyết pháp chân-lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng-sinh.

- Sugato:Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thiện Ngôn.

 
Sugato có 4 ý nghĩa
 

- Thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh.

- Ngự theo Thánh-đạo.
- Ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.
- Ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí.
 
Giải thích:
 

1- Sugato có ý nghĩa thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh như thế nào?

 

Đức-Thế-Tôn tùy thời thuyết pháp chân-lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Đức-Thế-Tôn không thuyết pháp.

Đức-Thế-Tôn biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:

 

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

 

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài vẫn không thuyết giảng pháp ấy.

 

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài vẫn không thuyết giảng pháp ấy.

 

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

 

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài biết rõ tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

 

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài biết rõ tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

 

Vì vậy, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh.

 

2- Sugato có ý nghĩa ngự theo Thánh-đạo như thế nào?

 

Đức-Thế-Tôn ngựtheo Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là:

 

* Chánh-kiến: Trí tuệ chân-chính là trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

 

* Chánh-tư-duy:Tư-duy chân-chính là:

- Tư-duy thoát khỏi ngũ dục,

- Tư-duy không thù oán,

- Tư-duy không hại chúng-sinh.

 

* Chánh-ngữ: Lời nói chân-chính là:

- Không nói dối,

- Không nói lời đâm thọc chia rẽ,

- Không nói lời thô tục,

- Không nói lời vô ích.

 

* Chánh-nghiệp: Hành-nghiệp chân-chính là:

- Không sát sinh,

- Không trộm cắp,

- Không tà dâm.

 

 * Chánh-mạng: Nuôi-mạng chân-chính là không sống theo tà-mạng do thân, khẩu hành ác.

 

* Chánh-tinh-tấn: Tinh-tấn chân-chính là:

- Tinh-tấn ngăn ác-pháp chưa sinh, không cho sinh.

- Tinh-tấn diệt ác-pháp đã sinh.

- Tinh-tấn làm cho thiện-pháp chưa sinh, được sinh.

- Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện-pháp đã sinh.

 

* Chánh niệm: niệm chân-chính là:

- Niệm-thân, thân là đối tượng của chánh-niệm…

- Niệm-thọ, thọ là đối tượng của chánh-niệm…

- Niệm-tâm, tâm là đối tượng của chánh-niệm…

- Niệm-pháp, pháp là đối tượng của chánh-niệm…

 

* Chánh-định: định chân-chính là định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn, 

- Định-tâm trong đệ nhất thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ nhị thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ tam thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ tứ thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ ngũ thiền siêu-tam-giới,

 

Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh này đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm, có đối-tượng Niết-bàn. 

Vì vậy, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa ngự theo Thánh-đạo.

 

3- Sugato có ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối như thế nào?

 

Đức-Thế-TônBậc đầu tiên chứng ngộ Niết-bàn bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là: 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ, nên Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết-bàn đầu tiên an-lạc tuyệt đối.

Về sau, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ các hàng đệ tử cũng chứng ngộ Niết-bàn với Thánh-đạo-tuệ, Thánh-quả-tuệ, nhưng những bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử này không có ân-đức Sugato như Đức-Thế-Tôn, bởi vì không phải bậc đầu tiên chứng ngộ Niết-bàn.

 

Vì vậy, chỉ có Đức-Thế-Tôn mới có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối mà thôi.

 

4- Sugato có ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí như thế nào?

 

Đức-Bồ-Tát Đạo sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác. Lần đầu tiên, Đức-Bồ-Tát Đạo sĩ Sumedha được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

 

Từ đó, Đức-Bồ-Tát Đạo sĩ Sumedha trở thành Đức-Bồ-Tát cố-định (niyatabodhisatta) tiếp tục thực-hành cho đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, suốt khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất một cách bất thoái chí.

Đến kiếp chót, Đức-Bồ-Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, đúng như lời thọ ký của Đức-Phật Dīpaṅkara.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.

 
5- Ân-Đức-Phật Lokavidū
 
Itipi so Bhagavā Lokavidū.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Lô-ká-ví-đu).

 
Nghĩa:
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn. 

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.

- Lokavidū:Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thông Suốt-Tam-tổng-pháp.

 

* Lokalà các pháp có sự sinh, sự diệt, sự thành, sự hoại,… ngũ-uẩn của mình gọi là loka.

 
Loka Có 3 LoạiError! Bookmark not defined.
 
1- Tổng các loài chúng-sinh (sattaloka).
2- Tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka).
3- Tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka).
 

Đức-Thế-Tôn có 2 loại trí-tuệ đặc biệt mà Chư Phật- Độc-Giác và bậc Thánh-Thanh-văn không có là:

 

- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 5 pháp-chủ cao thấp của mỗi chúng-sinh.

 

- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phiền-não ngấm ngầm, thiện-nghiệp, ác-nghiệp của mỗi chúng-sinh.

 

Cho nên, Đức-Thế-Tôn có khả năng đặc biệt thông suốt cả 3 tổng-pháp.

 

1- Thế nào gọi là tổng các loài chúng-sinh (sattaloka)?

 

* Chúng-sinh có 4 loài:

 

- Thai-sinh: Chúng-sinh sinh từ bụng mẹ như loài người, voi, ngựa, trâu, bò, v.v…

 

- Noãn-sinh: Chúng-sinh sinh từ trứng như gà, vịt, chim,..

 

- Thấp-sinh:Chúng-sinh sinh từ nơi ẩm thấp như con dòi, con giun,…

 

- Hóa-sinh:Chúng-sinh sinh hiện hữu ngay tức thì như Chư-thiên, Phạm-thiên, loài ngạ-quỷ, a-tu-la, chúng-sinh địa-ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này,...

 

* Chúng-sinh phân chia theo uẩn có 3 hạng:

- Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên).

 

- Chúng-sinh có tứ-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn (không có sắc-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới.

 

- Chúng-sinh có nhất-uẩn làsắc-uẩn (không có 4 danh-uẩn) trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên.

 

Đức-Thế-Tôn biết rõ chúng-sinh nào có 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già dặn hoặc còn non nớt, phiền-não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, bản tánh riêng của mỗi chúng-sinh, nguyện vọng cao cả của mỗi chúng-sinh. Cho nên, Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ chúng-sinh có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong kiếp hiện-tại, hoặc có nguyện vọng muốn trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, hoặc Đức-Phật-Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-văn-giác,... trong kiếp vị-lai.

Chúng-sinh không có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong kiếp hiện-tại, do nguyên nhân nào,…

 

Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ thông suốt tất cả các loài chúng-sinh không còn dư sót.

 
2- Thế nào gọi là tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka)?
 

Tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka) là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng-sinh trong tam-giới gồm có 31 cõi. Mỗi chúng-sinh được tạm trú với thời gian mau hoặc lâu hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực quả của thiện-nghiệp, quả của ác-nghiệp hỗ trợ mỗi kiếp chúng-sinh.

 
 Tam-giới có 31 cõi:
 
1- Dục-giới có 11 cõi,
2- Sắc-giới có 16 cõi,
3- Vô-sắc-giới có 4 cõi.

 1- Dục-Giới có 11 cõi chia ra 2 cõi giới:

 
* 4 Cõi Ác-Giới:
 

- Cõi địa ngục: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi a-tu-la: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi ngạ-quỷ: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi súc sinh: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

 
* 7 Cõi Thiện-Dục-Giới:
 
- Cõi người: Con người có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi trời dục-giới tứ Đại-thiên-vương: Chư-thiên có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Tam-thập-Tam-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người (bởi

1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Dạ-ma-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Đâu-suất-đà-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).

 - Cõi trời dục-giới Hóa-lạc-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2.304 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Tha-hóa-tự-tại-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người(bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).

 

2- Sắc-giới Phạm-thiên có 16 cõiphân chia theo 4 bậc thiền sắc-giới:

 
1- Đệ nhất thiền sắc-giới có 3 cõi:
 
- Cõi Phạm-Chúng-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ kiếp trụ(1).
 
- Cõi Phạm-Phụ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1/2 a-tăng-kỳ kiếp trụ.
 
- Cõi Đại-Phạm-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ kiếp trụ.
 
2- Đệ nhị thiền sắc-giới có 3 cõi:
 
- Cõi Thiểu-Quang-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 2 đại kiếp trái đất(2).
 
- Cõi Vô-lượng-Quang-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 4 đại kiếp trái đất.
 

- Cõi Quang-Âm-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 8 đại kiếptrái đất.

 
3- Đệ tam thiền sắc-giới có 3 cõi:
 

- Cõi Thiểu-Tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 16 đại kiếp trái đất.

 

- Cõi Vô-lượng-Tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 32 đại kiếp trái đất.

 

- Cõi Biến-Tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 64 đại kiếp trái đất.

 
4- Đệ tứ thiền sắc-giới có 7 cõi:
 
- Cõi Quảng-Quả-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 500 đại kiếp trái đất.
 

- Cõi Vô-Tưởng-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 500 đại kiếp trái đất.

 

* Cõi Phước-Sinh-thiên: có 5 cõi dành riêng cho Phạm-thiên là bậc Thánh-Bất-Lai chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới:

 

   - Cõi Vô-Phiền-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có tín-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 1.000 đại kiếp trái đất.

 

   - Cõi Vô-Nhiệt-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có tấn-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 2.000 đại kiếp trái đất.

 

   - Cõi Thiện-Hiện-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có niệm-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 4.000 đại kiếp trái đất.

 

   - Cõi Thiện-Kiến-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có định-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 8.000 đại kiếp trái đất.

 

 - Cõi Sắc-Cứu-Cánh-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 16.000 đại kiếp trái đất.

 

3- Vô-sắc-giới Phạm-thiêncó 4 cõi

- Đệ nhất thiền vô-sắc-giới, Không-Vô-Biên-Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.

- Đệ nhị thiền vô-sắc-giới, Thức-Vô-Biên-Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.

- Đệ tam thiền vô-sắc-giới, Vô-Sở-Hữu-Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.

- Đệ tứ thiền vô-sắc-giới, Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng- Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.

 

 * 1 tam giới gồm có 31 cõi.

* 1 tiểu-thế-giới có 31.000 cõi.

* 1 trung-thế-giới gồm có 31 triệu cõi.

* 1 đại-thế-giới gồm có 31 triệu triệu cõi (31.000 tỉ cõi).

 

Đức-Thế-Tôn không những thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô-số-thế-giới (anantacakkavāḷa).

3- Thế nào gọi là tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka)?

 

Pháp-hành là pháp do nhân duyên cấu tạo, có sự sinh, sự diệt, ví dụ: ngũ-uẩn

 

Tổng các loài chúng-sinh tổng các cõi chúng-sinh  thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), còn tổng các pháp-hành thuộc về chân-nghĩa-pháp(paramatthadhamma).

 
Đức-Thế-Tôn thông suốt tổng các pháp-hành, có nhiều pháp như sau:

- Pháp-hành có 1 pháp: Tất cả chúng-sinh được tồn tại do nhờ nhân(āhāra).

- Pháp-hành có 2 pháp: Danh-pháp và sắc-pháp.
- Pháp-hành có 3 thọ: Thọ khổ, thọ lạc, thọ xả.

- Pháp-hành có 4 pháp:vật thực, xúc, tác ý, tâm đem lại quả.

- Pháp-hành có 5 uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn.

- Pháp-hành có 6 xứ bên trong: nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tỷ-xứ, thiệt-xứ, thân-xứ, ý-xứ,

Và có 6 xứ bên ngoài: sắc-xứ, thanh-xứ, hương-xứ, vị-xứ, xúc-xứ, pháp-xứ. v.v…

 
Đức-Thế-Tôn thông suốt cả vô số pháp-hành bắt nguồn từ ngũ-uẩn.

Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Lokavidū: Đức- Thông-Suốt-Tam-tổng-pháp (tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành).

 

6- Ân-Đức-Phật Anuttaro Purisadammasārathi

 
Itipi so Bhagavā Anuttaro Purisadammasārathi.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Á-nút-tá-rô-pú-rí-xá-đăm-má-xa-rá-thí).

 
Nghĩa:
 
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.

- Anuttaro purisadammasārathi:Do đó, Đức-Thế-Tôn cóân-đức Vô-Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh.
 

Giáo Hóa Người Ác Trở Thành Bậc Thánh-Nhân

 

Kẻ cướp sát nhân cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ có biệt danhAṅgulimāla. Y có võ nghệ cao cường, sống một mình ở trong rừng, dù từng đoàn người 20 - 30 người đi qua khu rừng ấy, cũng không một ai thoát chết.

Một hôm, Đức-Thế-Tôn một mình đi vào rừng, nơi trú ẩn của Aṅgulimāla, để giáo hóa y. Y thức tỉnh, từ bỏ sát nhân, xin xuất gia trở thành Tỳ-khưu nơi Đức-Phật.

Về sau không lâu, Tỳ-khưu Aṅgulimāla thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng…

 

Giáo Hóa Dạ-Xoa Ác Trở Thành Bậc Thánh-Nhân

 

Tích Dạ-xoa Āḷavaka ăn thịt người rất hung ác, tàn bạo, có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm.

Một hôm, biết Dạ-xoa Āḷavaka đi vắng, Đức-Thế-Tôn ngự đến lâu đài của y, ngự trên bảo tọa trong lâu đài của Dạ-xoa Āḷavaka.

Nghe tin Đức-Thế-Tôn ngự trên bảo toạ của y, Dạ-xoa Āḷavaka nổi cơn giận dữ, vô cùng bực tức, liền trở về ngay, y dùng mọi phép mầu cực kỳ nguy hiểm, để xua đuổi Đức-Thế-Tôn xuống khỏi bảo tọa, rời khỏi cung điện của y ngay tức khắc, nhưng y hoàn toàn bất lực, không xua đuổi Đức-Thế-Tôn được.

Cuối cùng, có một bài kệ khó mà y quên câu giải đáp, y đã hỏi nhiều Sa-môn, Bà-la-môn mà không một ai có thể giải đáp đúng, để làm cho y hài lòng.

Nay y đem bài kệ ấy đặt điều kiện, nếu Đức-Thế-Tôn không giải đáp đúng thì phải rời khỏi lâu đài của y ngay.

 

Thật ra, Đức-Thế-Tôn ngự đến cốt yếu giải đáp bài kệ ấy, để tế độ Dạ-xoa Āḷavaka. Cho nên, sau khi Dạ-xoa Āḷavaka hỏi câu kệ xong, Đức-Thế-Tôn liền giải đáp đúng ý nghĩa sâu sắc của câu kệ ấy làm cho Dạ-xoa Āḷavaka vô cùng hoan hỷ, ngay khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, có đức tin trong sạch và không lay chuyển trong Tam-Bảo.

 

Giáo Hóa Phạm-Thiên Tà-Kiến Trở Thành Chánh-Kiến

 

Phạm-thiên Baka ở cung trời sắc-giới cõi Quang-Âm- thiên phát sinh thường-kiến mê lầm. Đức-Thế-Tôn từ ngôi chùa Jetavana, xuất hiện lên cõi trời sắc-giới cõi Quang-Âm-thiên, để tế độ Phạm-thiên Baka từ bỏ tà-kiến trở lại chánh kiến…

 
Giáo Hóa Loài Súc Sinh
 

Đức-Thế-Tôn giáo hóa các loài súc sinh như rồng chúa Apalāla, rồng chúa Cūḷodara, rồng chúa Mahodara, … trở thành rồng hiền lành.

Đức-Thế-Tôn giáo hóa tế độ voi chúa Nālāgiri rất hung dữ, trong cơn say, chạy đến để hại Đức-Thế-Tôn, Ngài rải tâm từ đến voi chúa Nālāgiri, ngay tức khắc voi chúa tỉnh lại, bò đến quỳ mọp xuống hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn.

Ngài giáo hóa voi chúa hung dữ này trở thành voi hiền lành, biết quy y Tam-Bảo, thọ trì ngũ giới.

Kể từ đó về sau, voi chúa rất hiền lành dễ thương, Đức-Thế-Tôn đặt tên là voi chúa Dhanapāla…

 

Đức-Thế-Tôn giáo hóa tế độ chúng-sinh hữu duyên nên tế độ, nghĩa là, những chúng-sinh ấy tiền kiếp có liên quan với Ngài, hoặc tiền kiếp đã từng gieo duyên lành nơi Chư Phật trong quá-khứ, hoặc đã từng tạo đầy đủ ba-la-mật, có đủ 5 pháp-chủ, đã từng gieo phước duyên trong giáo pháp của Chư Phật quá-khứ ấy.

 

Nay kiếp hiện-tại, chúng-sinh ấy được Đức-Thế-Tôn quan tâm đến để giáo hóa tế độ chúng-sinh ấy. (nghĩa là không phải Đức-Thế-Tôn gặp chúng-sinh nào cũng đều giáo hóa tế độ chúng-sinh ấy được). Đức-Thế-Tôn giáo hóa những chúng-sinh mà không có một ai có thể giáo hóa tế độ được, không có một vị nào có thể sánh được với Ngài.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Anuttaro purisa-dammasārathi: Đức-Vô-Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh.

 

* Riêng ân-Đức-Phật Anuttaro purisadammasārathi:

Trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo (Visuddhimagga), phần giảng dạy Ân-Đức-Phật, thì Ân-Đức-Phật này phân chia làm hai Ân-đức riêng biệt:

 
- Anuttaro: Đức-Vô-Thượng.

- Purisadammasārathi: Đức-Giáo-Hóa chúng-sinh.

 
Giải thích:
 

1- Ân-đức Anuttaro: Đức-Vô-Thượng như thế nào?

 

Đức-Thế-Tônsīlaguṇa: giới-đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.

 

Cũng như vậy, Đức-Thế-Tôn samādhiguṇa: định-đức trong sạch thanh tịnh ... có paññāguṇa: tuệ-đức trong sạch thanh tịnh ... có vimuttiguṇa: giải-thoát-đức trong sạch thanh tịnh ... có vimuttiñāṇadassana: giải-thoát-tri-kiến-đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.

 
Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Anuttaro: Đức-Vô-Thượng.
 
2- Ân đức Purisadammasārathi: Đức-Giáo-Hóa chúng-sinh như thế nào?
 

Đức-Thế-Tôn giáo hóa các loài chúng-sinh có duyên lành, mà không có một ai trong toàn thế giới chúng-sinh có khả năng giáo hóa tế độ chúng-sinh như Ngài.

 
Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Purisadammasārathi:Đức-Giáo-Hóa chúng-sinh.
 
7- Ân-Đức-Phật Satthā Devamanussānaṃ
 
Itipi so Bhagavā Satthā Devamanussānaṃ.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Xặt-tha-đê-voá-má-nút-xa-năng)

 
Nghĩa:
 
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc Thầy của nhân-loại, Chư- thiên, chư Phạm-thiên, …

- Satthā devamanussānaṃ: Do đó Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thiên-Nhân-Sư.
 
Sự Lợi Ích An-lạc Kiếp Hiện-tại
 

Đức-Thế-Tôn giáo huấn chúng-sinh thực-hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại(1).

 
4 Pháp Là:
 

- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, công việc.

- Biết giữ gìn của cải tài sản.
- Có bạn lành, bạn tốt là bậc-thiện-trí.

- Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình.

 
Giải thích:
 

1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc như thế nào?

 

Trong cuộc sống mỗi người nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn người(2). Biết

siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp ấy, trong công việc ấy, có trí-tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình.

 

2- Biết giữ gìn của cải tài sản như thế nào?

 

Của cải tài sản được tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ rằng: “Ta nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm cướp chiếm đoạt… giữ gìn của cải tài sản không bị hư mất”.

 

3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện-trí như thế nào?

 

Muốn được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận với bậc thiện-trí, làm bạn thân thiết, để học hỏi những thiện-pháp nên hành, những ác-pháp nên tránh xa. 

 

Bậc thiện-trí là người có đức-tin chơn-chánh, có giới- hạnh đầy đủ trọn vẹn, là bậc đa-văn túc-trí, học nhiều hiểu rộng, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết các pháp, là bậc thường hoan hỷ trong sự bố-thí.

 

Nhờ gần gũi, thân cận bạn lành bạn tốt là bậc thiện- trí, nên mình mới có cơ hội học tập, để có đức-tin trong sạch, có giới trong sạch, học nhiều hiểu rộng, có trí-tuệ hiểu biết các pháp, hoan hỷ trong sự bố-thí. Và học hỏi hiểu biết cách làm cho của cải phát triển,(1) và tránh xa cách làm cho của cải tiêu hao.

 

 4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình như thế nào?

 

Biết sử dụng của cải có chừng mực trong cuộc sống:

-     Không nên phung phí của cải quá mức.

-     Không nên hà tiện quá mức.

Nên nghĩ rằng “Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém hơn phần thu”.
 

Trong cuộc sống, nếu phần thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi thì tiền bạc của cải còn có phần dư dật, để dành lúc bệnh hoạn ốm đau, lúc tuổi già sức yếu, không thể tạo ra của cải được, nhờ có của cải tiền bạc dư dật, thì cuộc sống mới được an-lạc.

 

Ngược lại, nếu phần chi tiền bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu khổ cực.

 

Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình là lúc nào cũng “phần thu hơn phần chi”.

 

Đó là 4 pháp thực-hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại.

 

Sự Lợi Ích An-Lạc Những Kiếp Vị-Lai

 

Đức-Thế-Tôn giáo huấn chúng-sinh thực-hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc những kiếp vị-lai.

 
4 Pháp Là:
 
- Có đức-tin trọn vẹn.
- Có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn.
- Có sự bố-thí trọn vẹn.
- Có trí-tuệ trọn vẹn.
Giải thích:

1- Có Đức-Tin Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử có đức-tin trong sạch nơi 9 ân-Đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức-Tăng; có đức tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Có đức-tin trong sạch, nơi 9 ân-Đức-Phật rằng: “Đức-Thế-Tôn:
 

- Là Đức A-ra-hán xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân loại, Chư-thiên, Phạm-thiên,

 

- Là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả trở thành bậc Thánh-A-ra-hán

đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh,

 

- Là Đức-Minh-Hạnh-Túc có trọn đủ tam-minh, bát- minh và 15 đức-hạnh cao thượng,

 

- Là Đức-Thiện-Ngôn giáo huấn sự thật chân-lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh,

 
- Là Đức Thông-Suốt-Tam-tổng-pháp,
 
- Là Đức-Vô-Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh,
 
- Là Đức-Thiên-Nhân-Sư,
 

- Là Đức-Phật tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, rồi giáo huấn chúng-sinh có phước duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, …

 

- Là Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, do thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp- hạnh ba-la-mật”.

 

Và có đức tin trong sạch nơi 6 ân-Đức-Pháp, nơi 9 ân-Đức-Tăng.

 

Bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử có đức-tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp rằng: “Thiện-nghiệp cho quả an-lạc, ác-nghiệp cho quả khổ”. Ngoài ra, không tin một ai có quyền lực cho quả an-lạc hoặc cho quả khổ cho mình.

 

2- Có Giới Trong Sạch Và Trọn Vẹn Như Thế Nào?

 

Các hàng Thanh-văn đệ tử là bậc xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn theo phẩm hạnh của mình.

- Người cận sự nam, cận sự nữ có ngũ giới, hoặc bát giới… trong sạch và trọn vẹn.

 

- Vị sa-di có 10 sa-di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75 điều học, 14 pháp hành… trong sạch trọn vẹn.

 

- Vị tỳ-khưu có tứ thanh-tịnh giới, có tỳ-khưu-giới 227 điều giới, 14 pháp-hành, tỳ-khưu-giới kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới.

3- Sự Bố Thí Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử có tâm-từ, tâm-bi tế độ, hoan hỷ trong sự bố-thí tùy theo khả năng của mình, có tác-ý thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trước khi bố-thí, hoan hỷ đang khi bố-thí, hoan hỷ sau khi đã bố-thí xong.

 Các hàng Thanh-văn đệ tử không nên có tâm bủn xỉn, keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố-thí ít, có nhiều thì bố-thí nhiều tùy theo khả năng, tùy theo người thọ thí. Người thí chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng: “Được làm phước thiện bố-thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải, tiền bạc không phải là phước-thiện, mà thuộc về của chung đối với mọi người.

Nếu ta không biết sử dụng đem làm phước-thiện bố-thí, qua thời gian thì của cải ấy cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài được.

Nếu ta biết sử dụng của cải ấy, đem ra bố-thí, để biến thành phước-thiện bố-thí thì chắc chắn chỉ thuộc về của riêng ta mà thôi. Phước-thiện bố-thí ấy sẽ cho quả báu an-lạc trong kiếp hiện-tại, và nhiều kiếp vị-lai, có tính bền vững lâu dài.

Hơn nữa, cơ hội thuận lợi làm phước-thiện bố-thí chỉ có con người ở cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất chúng ta đang sống) này mà thôi. Các chúng-sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước thiện bố-thí.

Vì vậy, ta không nên bỏ lỡ cơ hội làm phước-thiện bố- thí này”.

4- Có Trí-Tuệ Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử mỗi khi bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ   với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

 

Thật ra, có trí-tuệ trọn vẹn là có trí-tuệ-thiền-tuệ tam- giới thấy rõ, biết rõ, sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, và có trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới,đó là 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâmNiết-bàn làm đối tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh-nhân.

 

Đó là 4 pháp thực-hành sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho kiếp hiện-tại, lẫn nhiều kiếp vị-lai.

 
Sự Lợi Ích An-lạc Cao Thượng Niết-Bàn
 
Đức-Thế-Tôn có 2 loại trí-tuệ đặc biệt:
 

* Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già giặn hoặc non nớt của mỗi chúng-sinh…

 

* Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh,…

 

Hai loại trí-tuệ đặc biệt này chỉ có nơi Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác mà thôi, còn các bậc Thánh-Thanh- văn hoàn toàn không thể có 2 loại trí-tuệ này. Cho nên, mỗi khi Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ các chúng-sinh nào, Ngài suy xét phước duyên của các chúng-sinh ấy.

Chúng-sinh nào đã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ, đã từng gặp Chư Phật ở quá-khứ đã thọ ký rồi.  

Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn tế độ chúng-sinh hợp

với phước duyên của các chúng-sinh ấy.

Sau khi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết pháp xong, chắc chắn các chúng-sinh ấy chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh Ba-la-mật và 5 pháp-chủ như sau:   

- Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

- Có số chứng đắc đến Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.

- Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Bất-lai.

- Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

 Bốn bậc Thánh-Nhân này đều chứng đạt đến sự lợi ích, sự an-lạc cao thượng Niết-bàn. 

Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ chúng-sinh không những nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, mà còn có loài súc sinh cũng được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nữa.

 
8- Ân Đức-Phật Buddho
 
Itipi so Bhagavā Buddho.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Bút-thô)

 
Nghĩa:
 
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, độc nhất vô nhị, rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có phước duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài; chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn tùy theo năng lực ba-la-mật và hạnh nguyện của mỗi chúng-sinh.

- Buddho:Do đó Đức-Thế-Tôn có ân-đức Đức-Phật.
 

*Ân-đức “Sammāsambuddho” và Ân-đức “Buddho” khác nhau như thế nào?

 

*Ân-đức Sammāsambuddhonghĩa là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên Ngài có ân-đức Sammāsambuddho.

 

Ân-đứcSammāsambuddho có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là:

* Trí-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên.
* Trí-tuệ-thành (paṭivedhañāṇa).
 

* Ân-đức Buddho nghĩa là tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, mà Ngài còn thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài.

- Có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập-lưu; có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-Nhất-lai; có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-Bất-lai; có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán.

Chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh nào do năng lực của 5 pháp-chủ và các pháp hành ba-la-mật của mỗi chúng-sinh ấy.

 

Ân-đứcBuddho có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là:

* Trí-tuệ của bậc Toàn-Giác (Sabbaññutañāṇa).

* Trí-tuệ thuyết pháp giáo-hóa chúng-sinh (desanāñāṇa).

 
Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các loại trí-tuệ:

- 4 trí-tuệ-phân-tích (paṭisambhidāñāṇa),

- 6 trí-tuệ-cá-biệt (asādhāraṇañāṇa),

- 10 trí-tuệ-lực (dasabalañāṇa)...,
 

Tất cả các loại trí-tuệ này được thành tựu cùng lúc với A-ra-hán Thánh-đạo-tâm, A-ra-hán Thánh-quả-tâm.

 9- Ân-Đức-Phật Bhagavā

 
Itipi so Bhagavā Bhagavā.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Phá-gá-voa)

Nghĩa:
 
- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật của Ngài.

- Bhagavā:Do đó Ngài có ân đức Đức-Thế-Tôn.
 

Ân-đức Bhagavā: Ân-đức Đức-Thế-Tôn thật vô cùng cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng-sinh. Ân-đức Bhagavā này, không phải do Phụ vương, Mẫu hậu của Ngài tôn vinh, cũng không phải do Chư-thiên, chư Phạm-thiên nào suy tôn Ngài.

Sự thật, ân-đức Bhagavā này là kết quả qua một quá trình tiến triển thực-hành 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác.

 

Trường hợp Đức-Phật Gotama thuộc về Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác trí-tuệ-siêu-việt. Cho nên, những tiền kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác trí-tuệ-siêu-việt, nghĩa là trí-tuệ có nhiều năng lực hơn đức-tintinh-tấn. Đức-Bồ-Tát, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ.

 

1- Thời kỳ đầu: Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt đã phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, để tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, rồi Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt thực-hành các pháp hạnh ba-la-mật suốt thời gian khoảng 7 a-tăng-kỳ (1).

2- Thời kỳ giữa: Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt đã phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng-sinh nghe biết ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, để tế độ chúng-sinh, rồi tiếp tục thực-hành các pháp hạnh ba-la-mật thêm suốt 9 a-tăng-kỳ nữa.

 

Qua 2 thời kỳ này vẫn còn là Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác bất-định (aniyatabodhisatta), nghĩa là có thể thay đổi ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật-Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-văn-giác.

 

Nếu Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt vẫn giữ nguyên ý nguyện tiếp tục thực-hành các pháp hạnh Ba-la-mật dẫn đến thời kỳ cuối.

 

3- Thời kỳ cuối: Sau khi đã trải qua 2 thời kỳ (phát nguyện trong tâm và bằng lời), Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt có đầy đủ năng lực mạnh, có thiện-tâm bất thoái chí, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt có duyên lành đến hầu Đức-Phật.

 

Trường hợp vị Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama, đến hầu Đức-Phật Dīpaṅkara.

 

Với Phật-nhãn thấu suốt vị-lai, Đức-Phật Dīpaṅkara biết rõ ý nguyện của Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha sẽ được thành tựu như ý, nên Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký vị Đức-Bồ-tát Đạo sĩ Sumedha rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất (1) nữa, Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.”

 

Sau khi được Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký, xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama, trở thành Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt cố-định(niyatabodhisatta) bất thoái chí, tiếp tục thực-hành, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi.

 

Từ đó về sau, mỗi khi có Đức-Phật nào xuất hiện trên thế gian, thì Đức-Bồ-Tát, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama đều đến hầu Đức-Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại.

 

Trong khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất ấy, có 24 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt tiền kiếp của Đức-Phật Gotama lần đầu tiên đã được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký và tiếp theo tuần tự các Đức-Phật khác, cho đến Đức-Phật thứ 24 là Đức-Phật Kassapa thọ ký cuối cùng.

Đức-Bồ-tát tiền kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, đến kiếp chót là Đức-Bồ-Tát Đức-vua Siddhattha xuất gia năm 29 tuổi, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama tại cội Đại-Bồ-đề vào canh chót ngày rằm tháng tư (âm lịch), năm 35 tuổi.

 

Cho nên, Đức-Phật Gotamaân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

 
Ân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôncó 6 đức-tính:
 
Issariya, Dhamma, Yasa, Siri, Kāma, Payatta.
 

1- Thế nào gọi Issariya: Tự chủ?

 

Đức-Thế-Tôn có tâm tự chủ trong các tam-giới-pháp và siêu-tam-giới-pháp.

 

- Tâm tự chủ trong tam-giới pháp: Đức-Thế-Tôn hóa phép thần thông song hành (yamakapaṭihāriya), có 2 luồng nước và lửa phát xuất từ kim thân của Ngài: Một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái; cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai…

- Tâm tự chủ trong siêu-tam-giới-pháp: Đức-Phật thuyết pháp xong, các hàng Thanh-văn đệ tử đồng thanh nói lên lời hoan hỷ “Sādhu! Sādhu!” trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Đức-Thế-Tôn có thể nhập A-ra-hán Thánh-quả để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

 
Cho nên, gọi là Issariya: Tự chủ.
 

2- Thế nào gọi là Dhamma: Chánh-pháp?

 
Đức-Thế-Tôn đã chứng đắc 9 siêu-tam-giới-pháp đó

4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, diệt-đoạn-tuyệt tất cả 1.500 loại phiền-não, 108 loại tham-ái, và tất cả mọi tiền khiên tật đã tích lũy từ vô lượng kiếp quá-khứ.

 
Cho nên, gọi là Dhamma: Chánh-pháp.
 

 3- Thế nào gọi là Yasa: Tiếng tốt lành?

 

Ân-đức của Đức-Thế-Tôn được lan truyền khắp toàn cõi chúng-sinh, từ cõi người cho đến cõi Long Vương, đến Chư-thiên ở 6 cõi trời dục-giới, đến chư Phạm-thiên ở 15 cõi trời sắc-giới (trừ cõi Vô-Tưởng-Thiên). Và thậm chí ngay cả chư Phạm-thiên ở cõi vô-sắc-giới cũng niệm tưởng đến ân-Đức-Phật.

 

 Cho nên, gọi là Yasa: Tiếng tốt lành.

 

4- Thế nào gọi là Siri: Hạnh phúc?

 

Kim-thân của Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim-thân của Ngài, nên nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên đến hầu đảnh lễ cúng dường đến Đức-Thế-Tôn, lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an-lạc, phát sinh hỷ lạc. Những chúng-sinh đến hầu Đức-Thế-Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.

 
Cho nên, gọi là Siri: Hạnh phúc.
 

5- Thế nào gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu?

 

Đức-Thế-Tôn khi còn là Đức-Bồ-Tát Sumedha có nguyện ước rằng:

“Buddho bodheyyaṃ”: Như-Lai tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, rồi sẽ giáo hóa chúng-sinh cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc thành bậc Thánh-Nhân (tự giác - giác tha).

Điều ước nguyện ấy đã thành tựu.
 

“Mutto moceyyaṃ”: Như-Lai tự mình giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, rồi sẽ giáo huấn chúng-sinh cũng được giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài (tự độ - độ tha).

Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.
 

“Tinno tareyyaṃ”: Như-Lai tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc, rồi sẽ dẫn dắt chúng-sinh cùng vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc (tự đáo - đáo tha).

Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.
Cho nên, gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu.
 

6- Thế nào gọi là Payatta: Tinh tấn không ngừng?

 

Hằng ngày Đức-Thế-Tôn có sự tinh tấn không ngừng thực-hành Buddhakicca (1): 5 phận sự của Đức-Phật:

 

 5 Phận Sự Của Đức-Phật:

 

 - Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ (purebhattakicca).   

 - Phận sự sau khi độ ngọ (pacchābhattakicca).
 - Phận sự canh đầu đêm (paṭhamayāma).
 - Phận sự canh giữa đêm (majjhimayāma).
 - Phận sự canh chót đêm (pacchimayāma).
 

Giải Thích

 

1- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?

 

Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, khi thì Đức-Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng-sinh nào đó, khi thì Đức-Phật ngự cùng với chư Tỳ-khưu Tăng đi vào xóm làng, kinh thành để khất thực.

 

Khi Đức-Phật thọ thực xong, số dân chúng thỉnh Đức-Phật thuyết pháp, số xin thọ phép quy y Tam-Bảo, số xin Đức-Phật cho phép xuất gia, rồi Đức-Phật ngự trở về chùa.

 
2- Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?
 

Khi ngự trở về chùa, Đức-Phật rửa chân xong, đứng trên bục giảng, Ngài khuyên dạy chư Tỳ-khưu rằng:

Bhikkhave appamādena sampādetha,
 Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ,
 Dullabho manussattapaṭilābho,
 Dullabhā khaṇasampatti,
 Dullabhā pabbajjā,
 Dullabhaṃ saddhammassavanaṃ.
 

- Này chư Tỳ-khưu! Các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không thất-niệm, tiến hành Tứ-niệm-xứ.

 

* Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó có.

* Được sinh làm người là một điều khó.

* Có được cơ hội thực-hành phạm-hạnh cao thượng là một điều khó.

* Được xuất gia trở thành Tỳ-khưu là một điều khó.

* Được nghe chánh-pháp là một điều khó.”
 

Đó là những điều khó mà Đức-Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ-khưu chớ nên thất-niệm.

 

Sau khi khuyên dạy xong, Đức-Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi, còn chư Tỳ-khưu mỗi vị ở một nơi, để thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc thực-hành pháp-hành- thiền-tuệ.

 
3- Phận sự canh đầu đêm như thế nào?
 

Canh đầu: Đức-Phật giáo huấn chư Tỳ-khưu, có số Tỳ-khưu hỏi pháp, luật; có số Tỳ-khưu xin thọ pháp- hành-thiền-định, xin thọ pháp-hành-thiền-tuệ; có số Tỳ-khưu nghe Đức-Phật thuyết pháp.

Qua hết canh đầu, chư Tỳ-khưu đảnh lễ Đức-Phật trở về chỗ ở của mình.

 
4- Phận sự canh giữa đêm như thế nào?
 

Canh giữa:Đức-Phật cho phép Chư-thiên, Phạm-thiên trong 10.000 thế giới đến hầu Ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Đức-Phật giảng giải những câu hỏi của Chư-thiên, Phạm-thiên xong, hết canh giữa, Chư-thiên, Phạm-thiên đảnh lễ Đức-Phật trở về cảnh giới của mình.

 
5- Phận sự canh chót đêm như thế nào?
 
Đức-Phật phân chia canh chót làm 3 thời:
 
- Thời gian đầu: Đức-Phật đi kinh hành.
 

- Thời gian giữa: Đức-Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có chánh niệm, trí-tuệ tỉnh giác, định giờ tỉnh dậy.

 

- Thời gian chót: Đức-Phật nhập thiền đại-bi, khi xả thiền, Đức-Phật xem xét chúng-sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật-nhãn-tuệ, thấy rõ, biết rõ chúng-sinh nào đã từng gieo duyên lành với Ngài, hoặc đã từng thực-hành các pháp hành ba-la-mật từ Chư Phật quá-khứ đến kiếp hiện-tại này, chúng-sinh ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, chúng-sinh ấy dù ở gần, dù ở xa, trong cõi người này hay cõi giới khác, Đức-Phật vẫn ngự đến nơi, để tế độ chúng-sinh ấy.

 

Mỗi ngày, mỗi đêm Đức-Thế-Tôn thực-hành đầy đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết-bàn.

 
Ân-đức Bhagavā còn có nhiều ý nghĩa khác.
 
Cho nên, Đức-Phật Gotamaân-đứcBhagavā:Đức-Thế-Tôn.

 

Thực-Hành Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật này, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp đầy đủ 9 ân-Đức-Phật. Mỗi khi niệm đến ân-Đức-Phật nào, nên hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy.

 

Sau đó, để đại-thiện-tâm dễ phát sinh, hành-giả nên ngồi nghiêm trang trước tượng Đức-Phật hoặc trước cội cây Đại-Bồ-đề, hoặc một nơi thanh vắng, để thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật này.

 
Phương-pháp thực-hành có nhiều cách:
 
1-Cách phổ thông: Niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật theo bài kinh như sau:
 

“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjā-caraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadam-masārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā…”

 

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Phật nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Phật như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 
2-Cách phân tách câu: 9 ân-Đức-Phật phân tách từng câu như sau:
 

1- Itipi so Bhagavā Arahaṃ,

2- Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho,

3- Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno,

4- Itipi so Bhagavā Sugato,

5- Itipi so Bhagavā Lokavidū,

6- Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi,

7- Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ,

8- Itipi so Bhagavā Buddho,

9- Itipi so Bhagavā Bhagavā,

 

Hành-giả thực-hành niệm mỗi câu ân-Đức-Phật nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của mỗi câu ân-Đức-Phật ấy, định-tâm theo dõi mỗi câu ân-Đức-Phật như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Hành giả có thể chọn một câu ân-Đức-Phật nào trong 9 Ân Đức-Phật làm đối tượng, để thực-hành niệm ân- Đức-Phật ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân- Đức-Phật ấy, luôn định-tâm nơi ân-Đức-Phật ấy.

 

Ví dụ: Niệm ân-Đức-Phật thứ nhất: Itipi so Bhagavā Arahaṃ..., Itipi so Bhagavā Arahaṃ...

 

Hoặc: Niệm ân-Đức-Phật thứ tám: Itipi so Bhagavā Buddho..., Itipi so Bhagavā Buddho...

 

Hoặc: Niệm ân-Đức-Phật thứ chín: Itipi so Bhagavā Bhagavā..., Itipi so Bhagavā Bhagavā...

 

Hành giả tâm niệm câu ân-Đức-Phật ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy, định- tâm theo dõi ân-Đức-Phật ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian thực-hành niệm ân-Đức-Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức-Phật.

 
3- Cách niệm một ân-Đức-Phật:  
 

Hành giả có thể chọn một ân-Đức-Phật nào trong 9 ân-Đức-Phật làm đối tượng, để thực-hành niệm ân-Đức-Phật ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của danh từ ân-Đức-Phật ấy, luôn định-tâm nơi ân-Đức-Phật ấy:

 Ví dụ: Niệm-niệm: Arahaṃ..., Arahaṃ..., Arahaṃ...

Hoặc: Niệm-niệm: Buddho..., Buddho..., Buddho...

Hoặc: Niệm-niệm: Bhagavā..., Bhagavā...,Bhagavā...

 

Hành giả niệm-niệm ân-Đức-Phật ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy, định-tâm theo dõi ân-Đức-Phật ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian thực-hành niệm ân-Đức-Phật ấy, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức-Phật.

 

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật là một đề-mục-thiền-định dễ làm cho phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, mà đức-tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.

 

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật là đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên, nên hành giả không thể định-tâm một nơi nào nhất định. Cho nên, đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật này chỉ có khả năng chứng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

 

Vì vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm có dục-giới đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với hành-giả là người đã gieo duyên lành, nhân tốt sâu sắc trong giáo pháp của Đức-Phật.

 

Tuy nhiên, tâm cận-định này có thể làm nền tảng, làm đối tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, diệt tận tham-ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo Thánh-quả và Niết-bàn được.

 
Như Đức-Phật dạy:
 

- Này chư Tỳ-khưu! Có một pháp hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

 
Pháp-hành ấy là pháp gì?
 
Pháp-hành ấy là Buddhānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân Đức-Phật.
 

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”(1)

 

Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm niệm 9 ân Đức-Phật thuộc về pháp-hành-thiền-định mà có khả năng chuyển sang làm nền tảng của pháp-hành-thiền-tuệ nữa.

 

Đề Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật 

 

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật có 2 giai đoạn:

 

- Giai đoạn đầu: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật thuộc về pháp-hành-thiền-định, hành giả thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật có khả năng dẫn đạt đến cận-định (upacārasamādhi). (phương-pháp đã trình bày ở phần trước).

 

- Giai đoạn sau: Sau khi thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã đạt đến cận-định rồi, nếu muốn tiếp tục chuyển sang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì hành giả cần phải có danh-pháp, sắc-pháp làđối-tượng của pháp-hành-thiền-tuệ hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp đối-tượng của pháp-hành-tứ-niệm-xứ: thân-niệm-xứ, thọ-niệm-xứ, tâm-niệm-xứ, pháp-niệm-xứ.

 
Pháp-Hành-Thiền-Tuệ
 

Cận-định của đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức Phật làm nền tảng, làm đối-tượng-thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ như thế nào?

 

Sau khi hành-giả đã thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, đã đạt đến cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, nếu hành-giả có ý nguyện muốn tiếp tục chuyển sang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì cần phải danh-pháp, sắc-pháp làđối-tượng của pháp-hành-thiền-tuệ hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).đối-tượng của pháp-hành-tứ-niệm-xứ: thân-niệm-xứ, thọ-niệm-xứ, tâm-niệm-xứ, pháp-niệm-xứ.

 

Cận-địnhnhất-tâm tâm-sở đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ thuộc về chân-nghĩa-pháp.

 

Thật-tánh niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật như thế nào?

 

Đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì không có hành-giả nào thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật,sự thật chỉ có niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm làm phận sự thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, dẫn đạt đến tâm cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật mà thôi.

 

* Phân tích đối-tượng tứ-niệm-xứ và đối-tượng-thiền-tuệ  

 

Tâm cận-địnhnày thuộc trong phần tâm-niệm-xứ của pháp-hành-tứ-niệm-xứ, và tâm cận-địnhdục-giới-đại-thiện-tâm phân tích theo danh-pháp, sắc-pháp như sau:

 

* Dục-giới-đại-thiện-tâm thuộc về danh-pháp,dục-giới-đại-thiện-tâm này phát sinh do nương nhờ sắc-ý-căn (hadayavatthurūpa) thuộc về sắc-pháp.  

 

Như vậy, danh-phápsắc-pháp liên quan với nhau làm đối-tượng-thiền-tuệ

 
* Phân tích theo ngũ-uẩn 
 

Tâm cận-địnhnày là dục-giới-đại-thiện-tâm 38 tâm-sở đồng sinh với tâm này, phân tích theo ngũ-uẩn như sau: 

 * Dục-giới-đại-thiện-tâmnày thuộc về thức-uẩn.

 

* Thọ tâm-sở đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm này thuộc về thọ-uẩn.

 

* Tưởng tâm-sở đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm này thuộc về tưởng-uẩn.

 

* Các tâm-sở còn lại đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm này thuộc về hành-uẩn.

 

* Sắc-ý-căn (hadayavatthurūpa) là nơi nương nhờ của dục-giới-đại-thiện-tâm nàyphát sinh thuộc sắc-uẩn.

Ngũ-uẩn này trong phần pháp-niệm-xứ của pháp-hành-tứ-niệm-xứ thuộc về danh-pháp, sắc-pháp.
 
Thực-Hành Pháp-Hành-Thiền-Tuệ
 

Thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng-thiền-tuệ danh-pháp, sắc-pháp này hoặc ngũ-uẩn này thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) từ tâm cận-định của đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật,hành-giả có chánh-niệmtrực nhận ngay đối-tượng danh-pháp (hoặc sắc-pháp) hoặc ngũ-uẩn thuộc về chân-nghĩa-pháp, trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mỗi danh-pháp (hoặc sắc-pháp) hoặc ngũ-uẩn hiện-tại ấy đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh,… mà sự-thật chỉ là danh-pháp, sắc-pháp mà thôi.

Trí-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mỗi danh-pháp, mỗi sắc-pháp như vậy, làm nền tảng cho các trí-tuệ-thiền-tuệ phát triển thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung:trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp; trí-tuệ-thiền-tuệ phát triển theo tuần tự dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. 

 

Như vậy, tâm cận-định trong đề-mục niệm niệm 9 ân-Đức-Phật làm nền tảng, làm đối tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ.

 
Như Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm 9 ân-Đức-Phật, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”

 

Quả Báu Đặc Biệt Đề Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật này dẫn đạt đến cận-định thuộc về pháp-hành-thiền-định, mà có khả năng chuyển sang làm nền tảng, làm đối-tượng-thiền-tuệ, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng-thiền-tuệ ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán trong kiếp hiện-tại.

 

* Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật này, nếu chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì hành-giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp vị-lai như sau:

 

- Được phần đông chúng-sinh kính trọng.

- Thiện-tâm trong sạch thanh tịnh,

- Khi sắp chết, lúc lâm chung tâm bình tĩnh sáng suốt,

- Sau khi chết, thiện-nghiệp này cho quả tái sinh kiếp sau làm người có đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô- si) cao quý, hoặc Chư-thiên cao quý.

- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc chúng-sinh cao quý.

- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ,

- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý,

- Thân hình có mùi thơm tho tỏa ra,

- Miệng có mùi thơm tho tỏa ra,

- Có trí-tuệ nhiều,

- Có trí-tuệ sâu sắc,

- Có trí-tuệ sắc bén,

- Có trí-tuệ nhanh nhẹn,

- Có trí-tuệ phong phú,

- Có trí-tuệ phi thường,

- Nói lời hay có lợi ích,

- Kiếp vị-lai có duyên lành gặp Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.   

 

Đó là những quả báu phát sinh từ đề-mục niệm 9 ân- Đức-Phật.

 

(Xong đề-mục-thiền-định niệm niệm 9 ân-Đức-Phật)

 

3.2- Dhammānussati: Đề Mục Niệm-Niệm 6 Ân-Đức-Pháp 

 

 Dhammānussatiđề-mục-thiền-định niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp. Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục Dhammānussati: đề-mục-thiền-định niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp,niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm6 ân-Đức-Pháp làm đối-tượng.    

 

Thực-hành Đề-Mục-Thiền-Định Dhammānussati

 

Hành-giả có ý nguyện thực-hành pháp-hành-thiền-định về đề-mục-thiền-định niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp, như Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Dhajaggasutta([5]) về phương-pháp niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp như sau:

 

“Svākkhāto Bhagavatā dhammo Sandiṭṭhiko Akāliko Ehipassiko Opaneyyiko Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

 

Ý Nghĩa 6 Ân-Đức-Pháp

 

1- Svākkhāto dhammo: Chánh-pháp gồm có 10 Pháp mà Đức-Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ sâu sắc, văn chương trong sáng, rõ ràng và thanh tịnh. 10 chánh-pháp là: 

 

- Pháp-học chánh-pháp (Pariyattisaddhamma),

- 9 Siêu-tam-giới-pháp (Navalokuttaradhamma) đó là 4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả + 1 Niết-bàn.

 

2- Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 Siêu- tam-giới-pháp mà chư Thánh-nhân đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn nào, rồi tự thấy, tự biết Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn ấy bằng trí-tuệ-thiền-tuệ của mình.

 

3- Akāliko dhammo: Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo cho quả tương xứng 4 Thánh-quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh-đạo nào liền cho quả Thánh-quả ấy sau 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt.

 

4- Ehipassiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 Siêu-tam-giới-pháp thuộc chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, nên dám mời đến chứng kiến, để thực chứng thực đắc. 

 

5- Opaneyyiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 Siêu- tam-giới-pháp là chánh-pháp nên hướng tâm đến chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

6- Paccattaṃ veditabbo viññūhi: Chánh-pháp đó là 9 Siêu-tam-giới-pháp mà chư bậc thiện trí Thánh-nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh-quả hưởng an-lạc Niết-bàn tịch tịnh.

 

Đó là 6 ân-Đức-Pháp mà chỉ có bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật mới có đầy đủ 6 ân-Đức-Pháp này mà thôi. Còn các hạng phàm-nhân Thanh-văn đệ tử có ân-Đức-Pháp giới hạn về phần pháp-học chánh-pháp và pháp-hành chánh-pháp, chưa đạt đến phần pháp-thành chánh-pháp (9 Siêu-tam-giới-pháp).

 

Giảng giải về 6 Ân Đức-Pháp

 

Trong bộ Chú-Giải giảng giải về 6 ân-Đức-Pháp được tóm lược sau đây:

 

1-Ân-Đức-Pháp Svākkhāto Dhammo

 
Svākkhāto Bhagavatā dhammo.
(Cách đọc: Xoa-kha-tô phá-gá-voa-ta thăm-mô)
 

Svākkhāto dhammo: Pháp gồm có 10 chánh-pháp mà Đức-Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràng và thanh tịnh.

 

10 chánh-pháp là:

- Pháp-học chánh-pháp
- 9 Siêu-tam-giới-pháp (4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả + 1 Niết-bàn).
 

Trong Chú-Giải Saṃyuttanikāya, phần Sagāthavagga trình bày 10 chánh-pháp hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối như sau:

 

1- Pháp-học chánh-pháp hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối như thế nào?

 
* Đức-Phật thuyết một bài kệ gồm có 4 câu:
 
- Câu đầu: Hoàn hảo ở phần đầu.
- Hai câu giữa: Hoàn hảo ở phần giữa.
- Câu cuối: Hoàn hảo ở phần cuối.
 
* Khi Đức-Phật thuyết một bài Kinh ngắn:
 
- Phần mở đầu: Hoàn hảo ở phần đầu.
- Phần thân bài: Hoàn hảo ở phần giữa.
- Phần kết luận: Hoàn hảo ở phần cuối.
 

* Đức-Phật thuyết một bài Kinh dài gồm có nhiều đoạn:

 
- Phần mở đầu: Hoàn hảo ở phần đầu.

- Phần thân bài có nhiều đoạn: Hoàn hảo ở phần giữa.

- Phần kết luận: Hoàn hảo ở phần cuối.
 

* Đức-Phật thuyết về Tạng Luật, Tạng Vi-Diệu-Pháp, sự hoàn hảo cũng tương tự như Tạng kinh.

 

2- Chín Siêu-tam-giới-pháp hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối như thế nào?

 
9 Siêu-tam-giới-pháp gồm có:
 

* 4 Thánh-đạo:

 
- Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga),
- Nhất-lai-Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga),
- Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga),
- A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga),
 

* 4 Thánh-quả:

 
- Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala),
- Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala),
- Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala),
- A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala),
 

*1 Niết-bàn: Là đối tượng của 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm chỉ có đối tượng Niết-bàn mà thôi, ngoài ra không có đối tượng nào khác.

 

9 Siêu-tam-giới-pháp thuộc về Pháp-thành chánh-pháp là quả của Pháp-hành chánh-pháp.

 

Pháp-hành chánh-pháp Pháp-thành chánh-pháp hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối như sau:

- Pháp-hành-giới: Hoàn hảo ở phần đầu.

- Pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả: Hoàn hảo ở phần giữa.

 
- Niết-bàn: Hoàn hảo ở phần cuối.
 
Hay trình bày một cách khác:
- Pháp-hành-giới, Pháp-hành-thiền-định: Hoàn hảo ở phần đầu.
 
- Pháp-hành-thiền-tuệ, 4 Thánh-đạo: Hoàn hảo ở phần giữa.
 
- 4 Thánh-quả và Niết-bàn: Hoàn hảo ở phần cuối.
 
Một cách trình bày khác:
 

Pháp-học chánh-pháp: Ban đầu lắng nghe, học hỏi, nghiên cứu để hiểu rõ về phương-pháp thực-hành pháp-hành-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ. 

Đó gọi là pháp-học chánh-pháp hoàn hảo ở phần đầu.

 
   * Pháp-hành chánh-pháp:Có 3 pháp:
 

- Pháp-hành-giới: Hành giả có tác-ý thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi hành ác, giữ gìn giới cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ

 

- Pháp-hành-định: Hành giả thực-hành pháp-hành-thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

- Pháp-hành-tuệ: Hành giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ làm cho phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp sắc-pháp; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

 

Đó là pháp-hành chánh-pháp hoàn hảo ở phần giữa.

 

* Pháp-thành chánh-pháp:Hành giả chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác pháp.

 

Đó là pháp-thành chánh-pháp hoàn hảo ở phần cuối.

 

Cho nên, ân-Đức-Pháp này gọi là Svākkhāto dhammo.

 
2- Ân-Đức-Pháp Sandiṭṭhiko Dhammo
 
 Sandiṭṭhiko dhammo.
(Cách đọc: Xăn đít thí-cô thăm-mô)
 

Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh-pháp gồm 9 Siêu-tam-giới-pháp mà chư Thánh-nhân đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn nào, rồi tự thấy, tự biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình.

Sandiṭṭhiko có 3 ý nghĩa:

1- Chứng đắc bằng trí-tuệ-thiền-tuệ của mình

 

- Bậc thiện-trí phàm-nhân thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu. 

 

- Bậc Thánh-Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.

 

- Bậc Thánh-Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Bất-lai.

 

- Bậc Thánh-Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

 

Mỗi bậc Thánh-nhân tự thấy, tự biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình.

 
2- Cách diệt phiền-não
 

* 4 Thánh-đạo-tuệ có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt (samucchedappahāna) được phiền-não tùy theo mỗi Thánh-đạo-tuệ như sau:

 

 - Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiến hoài-nghi.

 

- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại phiền-não là sân loại thô.

 

- Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại phiền-não làsân loại vi tế.

- A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si, ngã-mạn, phóng-tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi. Mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác- pháp đều bị diệt-đoạn-tuyệt không còn dư sót.

 

* 4 Thánh-quả-tuệ có khả năng đặc biệt diệt bằng cách làm vắng-lặng (paṭipassadhippahāna) được loại phiền-não mà 4 Thánh-đạo-tuệ đã diệt-đoạn-tuyệt rồi.

 

* Niết-bàn là đối tượng giải thoát khổ, diệt tử sinh luân hồi (nissaraṇappahāna).

 

Theo định luật tự nhiên, sau khi đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn nào rồi, thì bậc Thánh-nhân trí-tuệ quán-triệt (paccavekkhaṇañāṇa) suy xét 5 điều:

- Quán triệt biết rõ Thánh-đạo nào đã chứng đắc.

- Quán triệt biết rõ Thánh-quả nào đã chứng đắc.

- Quán triệt biết rõ Niết-bàn đã chứng ngộ.

- Quán triệt biết rõ phiền-não nào đã bị diệt-đoạn-tuyệt.

- Quán triệt biết rõ phiền-não nào chưa bị diệt-đoạn-tuyệt.

 

Ba bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-

Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai có trí-tuệ quán triệt suy xét 5 điều. Riêng bậc Thánh-A-ra-hán chỉ suy xét 4 điều mà thôi, không có điều “Quán triệt biết rõ phiền-não nào chưa bị diệt-đoạn-tuyệt” bởi vì Ngài đã diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não không còn dư sót nữa.

 
3- Tự khẳng định
 

- Bậc Thánh-Nhập-lưu tự biết, tự khẳng định sẽ không còn tái sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, ngạ-quỷ, a-tu-la, súc-sinh), chỉ còn tái sinh ở cõi người, cõi trời dục giới nhiều nhất là 7 kiếp, rồi sẽ chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn.

 

- Bậc Thánh-Nhất-lai tự biết, tự khẳng định chỉ còn tái sinh 1 kiếp trong cõi người hoặc cõi trời dục giới, rồi sẽ chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn.

 

- Bậc Thánh-Bất-lai tự biết, tự khẳng định không trở lại tái sinh trong cõi dục-giới, chỉ còn tái sinh ở cõi sắc- giới, rồi sẽ chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi sắc-giới ấy.

 

- Bậc Thánh-A-ra-hán tự biết, tự khẳng định ngay kiếp hiện-tại này là kiếp chót, sẽ tịch diệt Niết-bàn chấm dứt tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 
Vì vậy, ân-Đức-Pháp này gọi là Sandiṭṭhiko dhammo.
 
3- Ân-Đức-Pháp Akāliko Dhammo
 
Akāliko dhammo.
(Cách đọc: Á-ca-lí-cô thăm-mô)
 

Akāliko dhammo: Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo cho quả tương xứng 4 Thánh-quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh-đạo nào liền cho Thánh-quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.

 
Akāliko có 2 ý nghĩa:
 

1- Thánh-đạo diệt, Thánh-quả sinh không có thời gian ngăn cách:

 

Thánh-đạo, Thánh-quả cùng trong một Thánh-đạo lộ- trình-tâm (Maggavīthicitta). Ví dụ:

 

Trong Nhập-lưu-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm (Sotāpatti- maggavīthicitta) các tâm sinh diệt theo tuần tự như sau:

Bhavaṅgacitta ’ Bhavaṅgacalana ’ Bhavaṅgu-paccheda ’ Manodāravajjanacitta ’ Parikamma ’ Upacāra ’ Anuloma ’ Gotrabhū ’ Sotāpattimagga ’
Sotāpattiphala (2 - 3 sát-na tâm) ’ Bhavaṅgacitta.
 
Chấm dứt Nhập-lưu-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm.
Giải thích:
 

1- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm,                       (viết tắt bha)

2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động,          (vt. na)

3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt,      (vt. da)

4- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm,       (vt. ma)

5- Parikamma: Chuẩn-bị Nhập-lưu-Thánh-đạo-tâm sẽ phát sinh,   (vt. pari)

6- Upacāra: Cận-Nhập-lưu-Thánh-đạo-tâm sẽ phát sinh(vt. upa)      

7- Anuloma: Thuận-dòng theo 37 pháp để chứng đắc Nhập- lưu-Thánh-đạo     (vt. anu)

8- Gotrabhū: Chuyển-dòng từ phàm-nhân lên Thánh-nhân, (vt. got)

9- Sotāpattimaggacitta: Nhập-lưu-Thánh-đạo-tâm, (1sát-na- tâm)   (vt. mag)
10- Sotāpattiphalacitta: Nhập-lưu-Thánh-quả-tâm, (2-3 sát- na-tâm) (vt. pha)
11- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm, (vt. Bha).
 
chấm dứt Nhập-lưu-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm.
 
 

Đồ Biểu Nhập-Lưu-Thánh-Đạo-Lộ-Trình-Tâm

(Sotāpattimaggavīthicitta)
 
 

Qua Nhập-Lưu-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm nhận thấy:

 

Nhập-lưu-Thánh-đạo-tâm diệt, Nhập-lưu-Thánh-quả- tâm liền sinh, không có thời gian ngăn cách.

 

Tương tự như vậy trong Nhất-lai-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm, Bất-lai-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm, A-ra-hán-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm, mỗi Thánh-đạo-lộ-trình-tâm, khi Thánh-đạo-tâm nào diệt, liền Thánh-quả-tâm ấy sinh không có thời gian ngăn cách.

Như vậy, Thánh-quả-tâm liền sinh sau Thánh-đạo-tâm chỉ 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi.

Cho nên, 4 Thánh-đạo là pháp cho 4 Thánh-quả tương xứng không có thời gian ngăn cách gọi là Akālikadhamma.

 

2- 4 Thánh-đạo cho 4 Thánh-quả không có thời gian chờ đợi.

 
Tam-Giới Thiện-Nghiệp
 

* Dục-giới-thiện-nghiệp có khả năng cho quả ngay trong kiếp hiện-tại sớm nhất trong khoảng thời gian 7 ngày, và còn cho quả trong những kiếp vị-lai.

Nghiệp này cho quả có thời gian chờ đợi.
 

* Sắc-giới-thiện-nghiệp vô-sắc-giới-thiện-nghiệp không cho quả trong kiếp hiện-tại màchờcho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp trên cõi trời sắc-giới hoặc cõi trời vô-sắc-giới tùy theo bậc thiền sở đắc của hành-giả.

 

* Siêu-tam-giới-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở  trong 4 Thánh-đạo-tâm liền cho quả là 4 Thánh-quả- tâm tương xứng, ngay trong kiếp hiện-tại, không có thời gian chờ đợi, nghĩa là khi Thánh-đạo-tâm nào sinh rồi diệt, liền Thánh-quả-tâm ấy phát sinh, chỉ sau một sát-na-tâm mà thôi, không có thời gian chờ đợi.

 

Vì vậy, ân-Đức-Pháp này gọi là Akāliko dhammo.

 
4- Ân-Đức-Pháp Ehipassiko
 
Ehipassiko dhammo.
(Cách đọc: Ê-hi pát-xí-cô thăm-mô)
 

Ehipassiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 Siêu-tam-giới-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, nên dám mời đến để chứng kiến, để thực chứng, thực đắc.

 
Ehipassiko có 2 ý nghĩa:
 

1- 9 Siêu-tam-giới-pháp có thật-tánh chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) nên thực chứng.

 

9 Siêu-tam-giới-pháp đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn thuộc về chân-nghĩa-pháp có thật-tánh-pháp rõ ràng, thật-tánh không biến đổi theo thời gian, không gian, nghĩa là 9 Siêu-tam-giới-pháp đã phát sinh trong thời quá-khứ như thế nào, đang phát sinh trong thời hiện-tại và sẽ phát sinh trong thời vị-lai cũng như thế ấy. Cho nên, 9 Siêu-tam-giới-pháp có thật-tánh chân-thật rõ ràng.

 

Do có thật-tánh rõ ràng chân-thật như vậy, nên mới dám gọi đến, mời đến thực-hành đúng theo pháp-hành- trung-đạo, để thực chứng, để chứng đắc Thánh-đạo,   Thánh-quả và Niết-bàn bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của hành-giả.

 

Ví dụ: Trong hộp có viên ngọc quý, nên mới dám mời người khác đến xem...

 

2- 9 Siêu-tam-giới-pháp có thật-tánh hoàn toàn trong sạch thanh tịnh:

 

9 Siêu-tam-giới-pháp đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn thuộc chánh-pháp hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, bởi vì 9 Siêu-tam-giới-pháp này không hề bị ô nhiễm bởi phiền-não, nên dám mời đến, động viên khuyến khích đến, để chứng kiến, thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo, thì sẽ chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của hành giả.

 

Ví dụ: Trong đời này, những vật có thật, đang hiện hữu, nếu những vật ấy là thứ bất tịnh, ô uế, hôi thối, bẩn thỉu đáng tránh xa thì không có một ai dám mời, dám động viên khuyến khích người khác đến để xem.

 

Còn 9 Siêu-tam-giới-pháp này thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, nên dám mời, dám động viên khuyến khích người khác đến để chứng kiến, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, để chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 
Vì vậy, ân-Đức-Pháp này gọi là Ehipassiko dhammo.
 
5- Ân-Đức-Pháp Opaneyyiko
 
Opaneyyiko dhammo
(Cách đọc: Ô-pá-nây-di-cô thăm-mô)
 

Opaneyyiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 Siêu-tam-giới-pháp là pháp nên hướng tâm chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Những hạng phàm-nhân chắc chắn chưa từng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa từng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, cũng chưa từng chứng ngộ Niết-bàn lần nào, trong kiếp tử sinh luân hồi trong tam-giới, nên những hạng phàm-nhân thường bị 11 thứ lửa(1) và 1.500 loại phiền-não thiêu đốt, làm cho thân tâm nóng nảy, chẳng bao giờ được an-lạc thật sự. Cho nên, dập tắt lửa phiền-não là việc cần kíp, không nên chậm trễ.

 

Để diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não một cách hữu hiệu chỉ có 9 siêu-tam-giới-pháp mà thôi.

 

* 4 Thánh-đạo-tuệ có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não (samucchedappahāna).

* 4 Thánh-quả-tuệ có khả năng làm vắng lặng được phiền-não (paṭipassaddhippahāna).

 
* Niết-bàn là pháp giải thoát khổ, diệt tử sinh luân hồi (nissaraṇappahāna).
 

* Bậc Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiếnhoài-nghi, vĩnh viễn không bao giờ khổ do tà-kiếnhoài-nghi nữa.

 

Bậc Thánh-Nhập-lưu không còn tái sinh trong 4 cõi ác-giới, chỉ còn tái sinh trong 7 cõi thiện-giới nhiều nhất 7 kiếp. Đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

* Bậc Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại phiền-não là sân loại thô, vĩnh viễn không bao giờ bị khổ do sân loại thô nữa.

 

Bậc Thánh Nhất Lai chỉ còn tái sinh 1 kiếp nữa mà thôi. Kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

* Bậc Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại phiền-não là sân loại vi tế, vĩnh viễn không bao giờ bị khổ do sân loại vi tế nữa.

 

Bậc Thánh-Bất-lai không còn tái sinh trở lại cõi dục- giới nữa, chỉ tái sinh lên cõi trời sắc-giới, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

* Bậc A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si, ngã mạn, phóng-tâm, buồn-ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi tất cả mọi tham-ái, mọi ác- pháp không còn dư sót.

Vì vậy, bậc Thánh-A-ra-hán hoàn toàn không có khổ- tâm, chỉ còn khổ-thân mà thôi.

 

Bậc Thánh-A-ra-hán chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Đối với các hạng phàm-nhân còn đầy đủ mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, thì còn phải khổ-tâm, khổ thân từ kiếp này sang kiếp khác.

 

Hễ còn tử sinh luân hồi trong tam-giới, thì khó tránh khỏi khổ trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh).

 
Muốn giải thoát khỏi khổ-tái-sinh, thì chỉ có chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn mà thôi.
 

Vì vậy, hành giả quyết tâm tinh tấn không ngừng, đặt ưu tiên hàng đầu là hướng tâm đến sự chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn mà thôi. Dù cho lửa cháy trên đầu cũng không quan tâm, bởi vì, họ suy xét rằng: “Lửa cháy trên đầu chỉ làm khổ (nóng nảy) một kiếp hiện-tại này, nhưng phiền-não chưa diệt-đoạn-tuyệt được, không chỉ làm khổ (nóng nảy) trong kiếp hiện-tại, mà còn khổ lâu dài trong vô số kiếp vị-lai nữa.”

 

Sự chết là điều chắc chắn, nhưng không biết chắc sẽ chết khi nào, nên hành giả đặt ưu tiên hàng đầu là hướng tâm cố gắng tinh tấn không ngừng, thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

 

Cho nên, 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn9 siêu-tam-giới-pháp mà hành-giả nên đặt ưu tiên hướng tâm của mình để chứng đắc trước tiên.

 

Vì vậy, ân-Đức-Pháp này gọi là Opaneyyiko dhammo.

 

6- Ân-Đức-Pháp Paccattaṃ veditabbo Viññūhi

 
Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo.

(Cách đọc: Pách-chát-tăng vuê-đí-tắp-bô vinh-nhu-hí phá-gá-voa-ta thăm-mô)

 

Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo: Chánh-pháp đó là 9 Siêu-tam-giới-pháp mà chư bậc thiện-trí Thánh-nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh-quả hưởng an-lạc Niết-bàn.

 
Bậc thiện-trí có 3 hạng:
 

1- Bậc thiện-trí có trí-tuệ-bậc-thượng:

 

Bậc thiện-trí có trí-tuệ-bậc-thượng (ugghaṭitaññū)này có trí-tuệ bậc-thượng sắc bén, nhanh nhạy, khi lắng nghe một bài kệ có 4 câu, chỉ cần nghe 2 câu đầu, bậc thiện-trí nàythực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân ngay khi ấy, không cần chờ nghe tiếp đến 2 câu sau.

 

2- Bậc thiện-trí có trí-tuệ bậc trung:

 

Bậc thiện-trí có trí-tuệ bậc trung(vipañcitaññū) này có trí-tuệ bậc trung, khi lắng nghe pháp đầu đề xong, lắng nghe tiếp theo lời giảng giải, khai triển, bậc thiện-trí này thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn ngay khi ấy.

 

3- Bậc thiện-trí có trí-tuệ bậc thường:

 

Bậc thiện-trí có trí-tuệ bậc thường(neyya) này có trí-tuệ bậc thường, khi lắng nghe pháp đầu đề, lắng nghe tiếp theo lời giảng giải, khai triển xong rồi, bậc thiện trí này còn cần phải gần gũi, thân cận với chư Thánh-Thanh- văn để được giúp đỡ, hỗ trợ.

 

Bậc thiện-trí này cố gắng tinh tấn thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ trải qua một thời gian, mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn trong kiếp hiện-tại ấy.

 
Thánh-đạo-lộ-trình-tâm có 4 loại:
 
1- Nhập-lưu-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm,
2- Nhất-lai-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm, 
3- Bất-lai-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm,
4- A-ra-hán-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm,
 

Sau mỗi Thánh-đạo-lộ-trình-tâm trở thành bậc Thánh-nhân, theo định luật tự nhiên liền tiếp theo sau có 5 lộ- trình-tâm (paccavekkhaṇavīthicitta) phát sinh tuần tự, mỗi lộ-trình-tâm làm phận sự quán triệt Thánh-đạo, Thánh-quả nào đã chứng đắc rồi; Niết-bàn đã chứng ngộ rồi; phiền-não đã bị diệt-đoạn-tuyệt rồi; và mọi phiền-não chưa bị diệt-đoạn-tuyệt như sau:

 

- Sau Nhập-Lưu-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm có 5 lộ-trình-tâm phát sinh theo tuần tự làm phận sự quán triệt Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, Niết-bàn, phiền-não đã bị diệt-đoạn-tuyệt, phiền-não chưa bị diệt-đoạn-tuyệt.

 

- Sau Nhất-lai-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm có 5 lộ-trình-tâm phát sinh theo tuần tự làm phận sự quán triệt Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả, Niết-bàn, phiền-não đã bị diệt-đoạn-tuyệt rồi, phiền-não chưa bị diệt-đoạn-tuyệt.

 

- Sau Bất-lai-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm có 5 lộ-trình-tâm phát sinh theo tuần tự làm phận sự quán triệt Bất-lai-Thánh đạo, Bất-lai-Thánh-quả, Niết-bàn, phiền-não đã bị diệt-đoạn-tuyệt rồi, phiền-não chưa bị diệt-đoạn-tuyệt.

 

- Sau A-ra-hán-Thánh-đạo-lộ-trình-tâm có 4 lộ-trình- tâm phát sinh theo tuần tự làm phận sự quán triệt A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả, Niết-bàn, mọi phiền não còn lại đã bị diệt-đoạn-tuyệt không còn dư sót.

 

Cho nên, mỗi bậc Thánh-nhân chắc chắn tự mình biết rõ Thánh-đạo, Thánh-quả mà mình đã chứng đắc.

 
Khả Năng Đặc Biệt Của Mỗi Bậc Thánh-Nhân
 

Những bậc Thánh-nhân ngang hạng với nhau, có thể biết nhau qua đàm đạo hoặc bằng tha-tâm-thông.

 

Những Thánh-nhân bậc thấp không có khả năng biết được Thánh-nhân bậc cao, mà chỉ có Thánh-nhân bậc cao mới có khả năng biết được Thánh-nhân bậc thấp mà thôi, cũng qua cuộc đàm đạo hoặc bằng tha-tâm-thông.

 

Những hạng phàm-nhân hoàn toàn không thể biết được các bậc Thánh-nhân.

 

Bậc Thánh-Nhân Nhập Thánh-Quả

 

Bậc Thánh-nhân có khả năng nhập Thánh-quả (phala-samāpatti) mà Ngài đã chứng đắc, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

 

Bậc Thánh-nhân nào đã chứng đắc bậc thiền siêu-tam-giới có đối tượng Niết-bàn, thì bậc Thánh-nhân ấy có khả năng nhập Thánh-quả-tâm với bậc thiền siêu-tam-giới ấy, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

 

* Bậc Thánh-Nhập-lưu có khả năng nhập Nhập-lưu- Thánh-quả-tâm, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

* Bậc Thánh-Nhất-lai có khả năng nhập Nhất-lai Thánh-quả-tâm, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

* Bậc Thánh-Bất-Lai có khả năng nhập Bất-lai-Thánh-Thánh-quả-tâm, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

* Bậc Thánh-A-ra-hán có khả năng nhập A-ra-hán Thánh-quả-tâm, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

 

Bậc Thánh-nhân đã chứng đắc đến Thánh-quả-tâm nào thì bậc Thánh-nhân ấy chỉ có thể nhập Thánh-quả-tâm ấy mà thôi, để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

Như vậy, bậc Thánh-nhân bậc thấp không có khả năng nhập Thánh-quả-tâm bậc cao, và Thánh-nhân bậc cao cũng không nhập Thánh-quả-tâm bậc thấp.

 

9 Siêu-tam-giới-pháp mà bậc Thánh-nhân đã chứng đắc, tự mình biết rõ, tự mình an hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

 
Vì vậy, ân-Đức-Pháp này gọi là Paccataṃ veditabbo viññūhi.
 

Ân-Đức-Pháp-Bảo Được Thực Chứng

 

Trong bài kinh Brahmaṇasutta(1), Đức-Phật thuyết về Ân-Đức-Pháp được thực chứng, tự thấy, tự biết do chính mình, được tóm lược như sau:

 

Một thuở nọ, một vị Bà-la-môn đến đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:

 

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nhân nào mà Ân-Đức- Pháp-Bảo gọi là Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi?

 
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
 

- Này Bà-la-môn! Người có tâm tham-dục phát sinh, tâm tham-dục khống chế, tâm tham-dục bắt buộc xui khiến tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ cả mình lẫn người, chịu nỗi khổ-tâm, nỗi khổ-thân.

 

Khi Thánh-đạo-tuệ phát sinh diệt-đoạn-tuyệt được tâm tham-dục rồi, người ấy không còn tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn cả người, không còn chịu khổ-tâm, khổ-thân nữa.

 

- Này Bà-la-môn! Do nhân ấy, Ân-Đức-Pháp-Bảo gọi là Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.

- Này Bà-la-môn! Người có tâm sân-hận phát sinh, tâm sân-hận khống chế, tâm sân hận bắt buộc xui khiến tự làm khổ mình….

- Này Bà-la-môn! Người có tâm si-mê phát sinh, tâm si-mê khống chế, tâm si-mê bắt buộc xui khiến tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ cả mình lẫn người, chịu nỗi khổ-tâm, nỗi khổ-thân.

Khi Thánh-đạo-tuệ phát sinh diệt-đoạn-tuyệt được tâm si-mê rồi, người ấy không còn tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn cả người, không còn chịu nỗi khổ-tâm, nỗikhổ-thân nữa.

- Này Bà-la-môn! Do nhân ấy, Ân-Đức-Pháp-Bảo gọi là Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi…. ”

 

Nghe Đức-Phật thuyết giảng như vậy, ông Bà-la-môn vô cùng hoan hỷ tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn, rồi ông kính xin quy y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy y nơi tỳ-khưu Tăng-bảo.

Ông kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận ông là một cận sự nam đã quy y Tam-Bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.

 

Niết-Bàn Là Pháp Chứng Ngộ

 

Trong bài kinh Nibbutasutta(1), Đức-Thế-Tôn thuyết về Niết-bàn là pháp chứng ngộ, được tóm lược như sau:

 

Một thuở nọ, ông Bà-la-môn Jānusasoṇī đến đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Niết-bàn gọi là pháp Sandiṭṭhikaṃ,... Do nhân nào mà Niết-bàn gọi là Pháp Sandiṭṭhikaṃ, Akālikaṃ, Ehipassikaṃ, Opaneyyikaṃ, Paccattaṃ veditabbaṃ viññūhi?

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này Bà-la-môn! Người có tâm tham-dục, tâm sân- hận, tâm si-mê phát sinh, tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ mình lẫn cả người, chịu nỗi khổ-tâm, nỗi khổ-thân .

 

Khi Thánh-đạo-tuệ phát sinh có đối tượng Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được tâm tham-dục, tâm sân-hận, tâm si-mê xong rồi, người ấy không còn tự làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình lẫn cả người, không chịu nỗi khổ-tâm, nỗi khổ-thân nữa.

 

- Này Bà-la-môn! Do nhân ấy, Niết-bàn gọi là pháp Sandiṭṭhikaṃ, Akālikaṃ, Ehipassikaṃ, Opaneyyikaṃ, Paccattaṃ veditabbaṃ viññūhi.

 

Nghe Đức-Phật thuyết giảng như vậy, ông Bà-la-môn vô cùng hoan hỷ tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn, rồi ông kính xin quy y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy y nơi tỳ-khưu-Tăng-bảo.

 

Ông kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận ông là một cận sự nam đã quy y Tam-Bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.

 

6 Ân-Đức-Pháp-Bảo

 

* Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử Đức-Phật có khả năng đạt đến 6 ân-Đức-Pháp trọn vẹn, bởi vì quý Ngài đã hiểu biết rõ pháp-học chánh-pháp lời giáo huấn của Đức-Phật, đã thực-hành đúng theo pháp-hành chánh-pháp là thực-hành pháp-hành-giới, thực-hành pháp-hành-thiền định, thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, đãchứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, đó là Pháp-thành chánh-pháp.

 

* Còn các hàng phàm-nhân Thanh-văn đệ tử có khả năng đạt đến ân-Đức-Pháp có giới hạn về phần Pháp-học chánh-pháp và phần Pháp-hành chánh-pháp đang thực-hành pháp-hành-giới, đang thực-hành pháp-hành-thiền-định, đang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ còn thuộc về tam-giới-pháp.

 

Các hàng phàm-nhân Thanh-văn chưa chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết Bàn, nên chưa đạt đến Pháp-thành chánh-phápthuộc về 9 siêu-tam-giới-pháp.

 

Thực-Hành Đề-Mục Niệm-Niệm 6 Ân-Đức-Pháp

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục niệm- niệm 6 ân-Đức-Pháp này, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp đầy đủ 6 ân-Đức-Pháp. Mỗi khi niệm đến ân-Đức-Phật nào, nên hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Pháp ấy.

Sau đó, để đại-thiện-tâm dễ phát sinh, hành-giả nên ngồi nghiêm trang trước tượng Đức-Phật hoặc trước cội cây Đại-Bồ-đề, hoặc một nơi thanh vắng, để thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp này.

 
Phương-pháp thực-hành có nhiều cách:
 

1- Cách phổ thông: Niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp theo bài kinh Dhajaggasutta như sau:

 

Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi...” 

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Pháp nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Pháp ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Pháp như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm niệm 6 ân-Đức-Pháp, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 

2- Cách phân tách câu: 6 ân-Đức-Phápphân tách từng câu như sau:  

 

1- Svākkhāto Bhagavatā dhammo,

2- Sandiṭṭhiko dhammo,

3- Akāliko dhammo,

4- Ehipassiko dhammo,

5- Opaneyyiko dhammo,

6- Paccattaṃ veditabbo viññūhi, ...”

 

Hành-giả thực-hành niệm mỗi câu ân-Đức-Pháp nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của mỗi câu ân-Đức-Pháp ấy, định tâm theo dõi mỗi câu ân-Đức-Pháp như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 

Hành giả có thể chọn một câu ân-Đức-Pháp nào trong 6 Ân Đức-Pháp làm đối tượng, để thực-hành niệm ân- Đức-Pháp ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Pháp ấy, luôn định-tâm nơi ân Đức-Pháp ấy. Ví dụ:

 

* Niệm ân-Đức-Pháp thứ nhất: Svākkhāto Bhagavatā dhammo, … Svākkhāto Bhagavatā dhammo, …

 

Hoặc: Niệm ân-Đức-Pháp thứ ba: Akāliko dhammo,... Akāliko dhammo,…  

 

Hành giả tâm niệm câu ân-Đức-Pháp ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Pháp ấy, định- tâm theo dõi ân-Đức-Pháp ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian thực-hành niệm ân-Đức-Pháp, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.  

Đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp là một đề-mục-thiền-định dễ làm cho phát sinh đức tin nơi Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, mà đức- tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.

 

Đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp là đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên, nên hành giả không thể định-tâm một nơi nào nhất định. Cho nên, đề-mục niệm niệm 6 ân-Đức-Pháp này chỉ có khả năng chứng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

Vì vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm có dục-giới đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với hành-giả là người đã gieo duyên lành, nhân tốt sâu sắc trong giáo pháp của Đức-Phật.

 

Tuy nhiên, tâm cận-định này có thể làm nền tảng, làm đối tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, diệt tận tham-ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được.

 
Như Đức-Phật dạy:
 

- Này chư Tỳ-khưu! Có một pháp hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

 
Pháp-hành ấy là pháp gì?
 
Pháp-hành ấy là Dhammānussati: Pháp-hành niệm- niệm 6 ân Đức-Pháp.
 

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm 6 ân-Đức-Pháp, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”(1)

 

Qua lời giáo huấn của Đức-Phật trên, thì đề-mục niệm- niệm 6 ân Đức-Pháp không chỉ là đề-mục của pháp-hành-thiền-định mà còn làm nền tảng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ nữa.

 

(Phần thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ cũng có phương-pháp thực-hành tương tự như đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã trình bày phía trước.)

 

Quả Báu Đặc Biệt Đề-Mục Niệm-Niệm 6 Ân-Đức-Pháp

 

Do năng lực của dục-giới đại-thiện-nghiệp đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp này sẽ cho quả báu hầu hết cũng giống như đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã trình bày phía trước.

 

 (Xong đề-mục-thiền-định niệm niệm 6 ân-Đức-Pháp)

 

3-3 Saṃghānussati: Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Tăng

 

Saṃghānussatilà đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng. Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục Saṃghānussati: đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng,niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm9 ân-Đức-Tăng làm đối-tượng.    

 

Thực-Hành Đề-Mục Saṃghānussati 

 

Hành-giả có ý nguyện thực-hành pháp-hành-thiền-định về đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, như Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Dhajaggasutta([6])về phương-pháp niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng như sau:

 

Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujup-paṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha-purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho Āhuneyyo, Pāhunēyyo, Dakkhineyyo, Añjalīkaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”

 

Ý Nghĩa 9 Ân-Đức-Tăng

 

1- Suppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

 

2- Ujuppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo Pháp-hành-Trung-đạo, không quanh co lầm lạc.

 

3- Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành-bát-chánh-đạo, chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

4- Sāmicippaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành pháp-hành- giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng-sinh tôn kính, lễ bái, cúng dường đến quý Ngài.

 

Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo siêu-tam-giới-tâm):

 

Chư Thánh-Thanh-Văn Có 4 Đôi

 

* Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả.

* Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả,

* Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả,

* A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả.

 

Chư Thánh-Thanh-Văn Có 8 Bậc Thánh

 

* Nhập-lưu-Thánh-đạo (Sotāpattimagga),

* Nhất-lai-Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga),

* Bất-lai-Thánh-đạo (Anāgāmimagga),

* A-ra-hán-Thánh-đạo (Arahattamagga),

 

* Nhập-lưu-Thánh-quả (Sotāpattiphala),

* Nhất-lai-Thánh-quả (Sakadāgāmiphala),

* Bất-lai-Thánh-quả (Anāgāmiphala),

* A-ra-hán-Thánh-quả (Arahattaphala).

 

5- Āhuneyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

 

6- Pāhunēyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

 

7- Dakkhineyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được phước-thiện lớn và quả báu nhiều cho mình và những người thân quyến.

 

8- Añjalīkaraṇīyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính, lễ bái, cúng dường.

 

9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh- Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

 

9 ân-Đức-Tăng chia ra làm 2 phần:

 

1- Ân-Đức-Tăng-Bảo Suppaṭipanno, Ujuppaṭipanno, Ñāyappaṭipanno, Sāmicippaṭipanno gồm có 4 Ân-Đức-Tăng này là nhân đã thực-hành đúng theo Thánh-đạo (Ariyamagga) hợp đủ 8 chánh (chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định), trở thành bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh.

 

2- Ân-Đức-Tăng-BảoĀhuneyyo, Pāhunēyyo, Dakkhi-neyyo, Añjalīkaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa gồm có 5 Ân-Đức-Tăng này là quả của 4 Ân-Đức-Tăng nhân ở trên.

 

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân mới có đủ 9 ân-Đức-Tăng này. Còn chư tỳ-khưu phàm-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, thì chỉ có giới hạn một phần ân-Đức-Tăng-bảo nào mà thôi. 

 
Giảng Giải Về 9 Ân-Đức-Tăng
 

Trong bộ Chú Giải giảng giải 9 ân-Đức-Tăng được tóm lược sau đây:

 
1- Ân-Đức-Tăng Suppaṭipanno
 

Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Xúp-pá-tí păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Suppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã thực-hành nghiêm chỉnh, đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, thực-hành không tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn người, thực-hành đúng theo pháp-hành-giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ.

 

- Pháp-hành-giới: Chư Thánh-Thanh-văn có đức tin vững chắc hoàn toàn trong sạch nơi Tam-Bảo, tôn trọng thực-hành các điều-giới, các pháp-hành Tăng-sự mà Đức-Phật đã chế định ban hành, nên quý Ngài nghiêm chỉnh thực-hành đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

 

Chư tỳ-khưu thực-hành pháp-hành-giới nghiêm chỉnh, thấy lỗi rất nhỏ, xem như lỗi lớn mà tránh xa, thà dám chịu hy sinh sinh-mạng, chứ không để phạm giới.

 

Như tích vị tỳ-khưu trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo, được tóm lược như sau:

 

Một bọn cướp gặp vị tỳ-khưu ở ven rừng, chúng nghĩ rằng: “Gặp Ngài là điều xui xẻo”. Bọn chúng bắt vị tỳ-khưu ấy trói buộc bằng một sợi dây dài gốc còn dưới đất,

rồi để Ngài nằm tại đó.

 

Chẳng may, một đám lửa rừng cháy lan đến, nếu Ngài vùng dậy để tránh ngọn lửa, thì làm đứt sợi dây còn tươi. Như vậy, Ngài sẽ bị phạm giới Pācittiya, mà Đức-Phật đã chế định ban hành đến chư tỳ-khưu.

 

Ngài nghĩ rằng: “Sự chết là điều chắc chắn, nếu ta thoát chết hôm nay, thì sau này cũng phải chết, nhưng giới của ta không trong sạch. Thà hôm nay, ta chịu chết với giới trong sạch, chứ không để phạm giới.

 

Do nhờ giới trong sạch, Ngài thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán. Khi ấy, ngọn lửa rừng lan đến thiêu cháy Ngài. Ngài tịch diệt Niết-bàn tại nơi ấy.

 

Nếu trường hợp vị tỳ-khưu nào phạm giới nhẹ, thì nên tìm đến một vị tỳ-khưu khác xin sám hối Āpatti. Đó là cách làm cho giới của mình trở lại trong sạch, làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc thực- hành pháp-hành-thiền-tuệ.  

 

- Pháp-hành-định: Đó là thực-hành pháp-hành-thiền-định, chư tỳ-khưu thanh-văn thực-hành pháp-hành- thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Khi nhập bậc thiền hưởng sự an-lạc trong bậc thiền ấy, hoặc để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-tuệ.

 

- Pháp-hành-tuệ: Đó là thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, chư tỳ-khưu thanh-văn thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật, gọi là chư Thánh-Tăng.

Nếu các hàng Thanh-văn đệ tử đang thực-hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật, mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào thì còn là hạng phàm Thanh-văn, gọi là chư phàm-Tăng.

 

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Supaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

 
2- Ân-Đức-Tăng Ujuppaṭipanno
 

Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

 (Cách đọc: Ú-chúp pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Ujuppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành-trung-đạo, không quanh co lầm lạc.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, đã thực-hành trung thực nghĩa là khi mình đã phạm lỗi, thì không giấu lỗi của mình; không hành lừa dối nghĩa là mình không có đức, không có tài, thì không làm ra vẻ như người có đức, có tài, v.v...

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn không thực-hành theo tâm tham đắm trong ngũ dục, cũng không thực-hành theo pháp hành khổ hạnh, tự làm khổ mình, mà Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã thực-hành theo pháp-hành-trung-đạo đó là pháp-hành bát-chánh-đạo, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

 

* Nếu đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả rồi, thì trở thành 4 bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật, gọi là chư Thánh-Tăng.

 

* Nếu chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, thì vẫn còn là phàm thanh-văn, gọi là chư phàm-Tăng.

 
Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
 
3- Ân-Đức-Tăng Ñāyappaṭipanno
 

Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Nha-giáp-pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Ñāyappaṭipanno:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành theo pháp- hành bát-chánh-đạo, chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã nhận thức rằng:“tam giới: dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới như là ba hầm lửa ngùn ngụt cháy không ngừng thiêu đốt tất cả chúng-sinh.”

 

Trong tam giới này không có một nơi nào thực sự được mát mẻ an-lạc. Tất cả chúng-sinh phải chịu cảnh nóng nảy do 11 thứ lửa: lửa tham-dục, lửa sân-hận, lửa si-mê, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa sầu-não, lửa khóc-than, lửa khổ-thân, lửa khổ-tâm, lửa thống-khổ cùng-cực, cùng với 1.500 loại phiền-não. Chỉ có Niết-bàn là pháp dập tắt được mọi thứ lửa, làm vắng lặng mọi phiền-não, giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn đó là pháp- hành bát-chánh-đạo. Hành giả thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định. Đó là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, đồng thời dập tắt mọi thứ lửa.

 

Cho nên, chư Thánh-Thanh-văn đã coi trọng phận sự chứng ngộ Niết-bàn lên ưu tiên hàng đầu. Dù lửa cháy trên đầu cũng xem thường, không quan tâm, vì họ nghĩ rằng: “lửa cháy trên đầu chỉ thiêu đốt một kiếp hiện-tại, còn các thứ lửa tham-dục, lửa sân-hận, lửa si-mê,... không chỉ thiêu đốt, làm nóng nảy trong kiếp hiện-tại, mà còn thiêu đốt làm nóng nảy nhiều kiếp trong vị-lai vô cùng, vô tận.”

 

Vì vậy, chư Thánh-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã đặt ưu tiên hàng đầu thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn.

 
Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
 
4- Ân-Đức-Tăng Sāmīcippaṭipanno
 

Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Xa-mi-chíp-pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Sāmīcippaṭipanno:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành pháp-hành- giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ đúng đắn, xứng đáng

để cho chúng-sinh tôn kính lễ bái cúng dường.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, đã thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ, thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán là bậc xứng đáng được chúng-sinh lễ bái cúng dường.

 

Những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, cung kính lễ bái cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư Thánh-Tăng, để mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

 

Để đáp ứng lại lòng mong ước của thí chủ cho được thành tựu như ý. Chư Tăng phải là bậc Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn có giới-đức hoàn toàn trong sạch, có định-đức hoàn toàn, có tuệ-đức hoàn toàn…

 

* Như tích Ngài Đại-đức Ayyamitta(1) hành đạo trong động Kassaka gần một xóm nhà. Hằng ngày, Ngài đi khất thực trong xóm nhà ấy, một gia đình nghèo khổ chỉ có hai mẹ con có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 

Hai mẹ con hằng ngày hộ độ để bát cúng dường đến Ngài Đại-đức Ayyamitta và xem Ngài như là người thân trong gia đình.

 

Một hôm, người mẹ vào rừng, đi làm sớm, trước khi đi bà căn dặn con gái rằng:

- Này con gái yêu quý! Gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt,... mẹ để ở kia. Khi sư huynh con đến khất thực, con hãy lấy những thứ đó nấu để bát cho sư huynh, phần còn lại, con ăn nhé!

 
Người con gái hỏi:
- Thưa mẹ! Còn mẹ ăn gì?
Bà mẹ trả lời:

- Con à! Mẹ đã ăn cơm nguội ngày hôm qua còn lại với nước canh chua rồi.

Người con gái hỏi tiếp:
- Thưa mẹ! Còn buổi trưa mẹ ăn gì?
Bà mẹ bảo đứa con gái:

- Này con gái yêu quý! Buổi trưa, con nấu cháo hạt tấm trộn với rau, để mẹ về ăn nghe!

 

Trong khi hai mẹ con bà thí chủ đang nói chuyện với nhau, khi ấy, Ngài Đại-đức Ayyamittađi khất thực đứng nghe được câu chuyện giữa hai mẹ con.

Ngài tự dạy mình rằng:

- Này Ayyamitta! Ngươi hãy lắng nghe đây! Sáng nay, bà thí chủ ăn cơm nguội còn lại với nước canh chua. Trưa nay, bà ăn cháo hạt tấm với rau. Còn những thứ gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt, ... bà lại để dành nấu để bát cúng dường cho ngươi.

Làm như vậy, không phải bà mong được những thứ của cải gì nơi ngươi, mà thật ra, bà mong thành tựu được quả báu an-lạc trong cõi người, trong cõi trời và thành tựu được quả báu an-lạc Niết-bàn.

Những quả báu mà bà mong ước, ngươi có thể đáp ứng được hay không?

Vì vậy, nếu ngươi chưa diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não trầm luân, thì người không xứng đáng thọ nhận vật thực của bà thí chủ ấy!

 

Sau khi tự dạy mình xong, Ngài không đi khất thực, mà trở về động cất bát, ngồi phát nguyện rằng:

 
“Arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmi”

Chưa chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, ta sẽ không rời khỏi nơi này.”

 

Do nhờ giới-đức trong sạch làm nền tảng, Ngài thực- hành pháp-hành-thiền-tuệ, trong khoảng thời gian không lâu, Ngài đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não-trầm-luân, mọi tham-ái, mọi ác- pháp, không con dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng.

 

Sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán xong, thời gian vẫn còn sớm, nên Ngài đi khất thực. Ngài mặc y, mang bát vào xóm khất thực.

 

Đang chờ đợi Ngài đến, đứa em gái cung kính để phần vật thực vào bát cúng dường đến Ngài Đại-đức Ayyamitta.

 

Đứa em gái cảm nhận rằng: “Hôm nay, sư huynh của ta có gương mặt trong sáng lạ thường, thật xứng đáng tôn kính lễ bái cúng dường biết dường nào!”

 

Buổi chiều, khi người mẹ vừa về đến nhà, cô gái liền chạy ra đón, và thưa với mẹ rằng:

- Thưa mẹ! Hôm nay sư huynh có gương mặt trong sáng lạ thường hơn mọi ngày. Thật là xứng đáng tôn kính lễ bái cúng dường biết dường nào! Mẹ à.

 

Nghe đứa con gái yêu quý thưa như vậy, bà thí chủ cảm thấy vô cùng sung sướng, hoan hỷ nghĩ rằng:

 

“Hôm nay, Ngài Đại-đức, con trai cao quý của ta chắc đã hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia tỳ- khưu rồi thì phải!

 

Qua tích này hiểu được rằng: Thật ra, hàng phàm-nhân chắc chắn không thể nào biết được tâm của bậc Thánh-nhân, song về sắc diện của bậc Thánh-nhân được biểu hiện trên gương mặt trong sáng lạ thường, hành vi cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng,... trang nghiêm phi thường.

 

Vì vậy, phàm-nhân có trí-tuệ nhận thức tinh tế cũng có thể biết được đó là những Bậc đáng được tôn kính.

 

Tương tự như trường hợp Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta khi còn là vị đạo-sĩ Upatissa, đệ tử của vị Đạo sư Sañcaya.

 

Nhìn thấy Ngài Đại-đức Assaji đang đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực, với dáng đi nghiêm trang, đôi mắt nhìn xuống,…Vị đạo-sĩ Upatissa phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài Đại-đức Assaji, nên thầm nghĩ rằng:

“Vị tỳ-khưu này chắc là bậc Thánh-A-ra-hán, Bậc xứng đáng tôn kính trong đời này. Vậy, ta nên đến gần gũi thân cận với Ngài, rồi thỉnh Ngài thuyết pháp tế độ ta.”

 

Đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-đức Assaji, sau khi Ngài độ vật thực xong, vị đạo-sĩ Upatissa kính thỉnh Ngài thuyết pháp.

 

Ngài Đại-đức Assaji thuyết một bài kệ gồm có 4 câu, vị đạo-sĩ Upatissa vừa mới nghe 2 câu đầu, liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

 

Như vậy, hạng thiện-trí phàm-nhân có trí-tuệ tinh tế, có nhận thức sâu sắc cũng có thể suy đoán biết được bậc Thánh-nhân thật xứng đáng tôn kính, qua phần giới-hạnh, do biểu hiện ra bên ngoài nơi thân và khẩu của bậc Thánh-nhân ấy.

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng được tôn kính, để cho chúng-sinh nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên lễ bái cúng dường.

 
Vì vậy, ân-Đức-Tăng này gọi là Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
 
 

* Cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho:

 

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh. (tính theo siêu-tam-giới-tâm)

 

Chư Thánh-Thanh-văn có 4 Đôi

 

* Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả.

* Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả,

* Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả,

* A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả.

 

Chư Thánh-Thanh-văn có 8 Bậc Thánh

 

* Nhập-lưu-Thánh-đạo (Sotāpattimagga),

* Nhất-lai-Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga),

* Bất-lai-Thánh-đạo (Anāgāmimagga),

* A-ra-hán-Thánh-đạo (Arahattamagga),

 

* Nhập-lưu-Thánh-quả (Sotāpattiphala),

* Nhất-lai-Thánh-quả (Sakadāgāmiphala),

* Bất-lai-Thánh-quả (Anāgāmiphala),

* A-ra-hán-Thánh-quả (Arahattaphala).

 
4 Bậc Thánh-Nhân
-Bậc Thánh-Nhập-lưu (Sotāpanna),
- Bậc Thánh-Nhất-lai (Sakadāgāmī),
- Bậc Thánh-Bất-lai (Anāgāmī),

- Bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta). 

 
5- Ân-Đức-Tăng Āhuneyyo
 

Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho

(Cách đọc: A-hú-nây-dô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Āhuneyyo:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng thọ nhận những vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được những quả báu sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lớn lao và lâu dài.

 

Tạo Phước Thiện Trong Phật-Giáo, Ngoài Phật-Giáo

 

Các hàng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật đã tạo mọi phước-thiện trong thời kỳ Phật-giáo. Sau khi chết, thiện- nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm thiên-nam, thiên-nữ trong các cõi trời dục giới. Những thiên-nam, thiên-nữ ấy có nhiều oai lực hơn các Chư-thiên đã tạo phước thiện ngoài Phật-giáo.

 

* Như tích vị thiên-nam Indaka trong cõi Tam-thập Tam-thiên được tóm lược như sau:

 

Tiền kiếp vị thiên-nam Indaka này sinh trong cõi người, trong thời kỳ Phật-giáo, đã từng tạo mọi phước- thiện như làm phước-thiện cúng dường đến Đức-Phật, nghe Pháp, làm phước thiện cúng dường đến chư tỳ- khưu Tăng, giữ giới, v.v…

Sau khi chết, thiện-nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau hoá sinh làm vị thiên-nam tên Indaka trong cõi trời Tam-thập-Tam-thiên, có nhiều oai lực hơn các vị Chư-thiên khác.

 

Mỗi khi đến chầu Đức-vua trời Sakka, vị thiên-nam Indaka phát ra hào quang sáng chói, lấn áp bao trùm hào quang của các Chư-thiên khác, kể cả Đức-vua trời Sakka. Vì vậy, Đức-vua trời Sakka cảm thấy tủi phận, vì mình là Đức-vua mà hào quang lại thua kém Chư-thiên đã tạo phước thiện trong Phật giáo.

 

* Tích Đức-vua trời Sakka

 

Một hôm, Đức-vua trời Sakka dùng thiên nhãn thấy Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa nhập-diệt-thọ-tưởng suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 mới xả. Đức-vua trời Sakka biết Ngài có tâm bi tế độ những người nghèo khổ, nên chờ ngày Ngài xả-diệt-thọ-tưởng.

 

Đức-vua trời Sakka truyền gọi bà Hoàng-hậu Sujātā, cả hai cùng hiện xuống cõi người, hóa làm người già nghèo khổ, sống trong một cái chòi lá nhỏ bên ven đường mà Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa đi khất thực ngang qua.

 

Đồ ăn đã sửa soạn sẵn, Đức-vua trời Sakka hóa làm một cụ già đáng thương, đứng chờ Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đi khất thực tế độ người nghèo khổ.

 

Vừa thấy Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa từ xa đi đến, cụ già (Đức-vua trời Sakka) bèn gọi Hoàng-hậu Sujātā biến hoá thành một bà già rằng:

 

- Bà ơi! Ngài Đại-Trưởng-Lão đang đến trước cổng chòi mình, bà có gì đem ra làm phước để bát cúng dường đến Ngài không?

 

Bà già (Hoàng-hậu Sujātā) bèn tâu lại với ông cụ (Đức-vua trời Sakka) rằng:

- Ông à! Ông kính thỉnh Ngài dừng lại tế độ chúng ta.

 

Ngài đứng lại. Cả hai ông bà già cung kính làm phước-thiện bố-thí để bát cúng dường đến Ngài. Vật thực mà Ngài Đại-Trưởng-Lãovừa thọ nhận phảng phất hương vị lạ thường. Ngài suy xét biết hai vợ chồng già này chính Đức-vua trời Sakka và Hoàng-hậu Sujātā, Ngài liền quở trách Đức-vua trời SakkaHoàng-hậu Sujātā rằng:

- Này Đức-vua trời! Lão Tăng tế độ người nghèo khổ, tại sao Đức-vua trời và Hoàng-hậu hoá làm người già giành của người nghèo như vậy?

 
Đức-vua trời Sakka bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, kính xin Ngài có tâm bi tế độ chúng con. Tiền-kiếp của chúng con làm mọi phước-thiện trong thời kỳ không có Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian. Chúng con cảm thấy tủi phận nghèo nàn, vì quả báu, oai lực không sánh được với Chư-thiên, mà tiền kiếp đã từng làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật, đến chư Đại-Đức-Tăng.

 

Đức-vua trời Sakka vô cùng hoan hỷ tự thốt lên rằng:

 
Aho! Dānaṃ paramadānaṃ Kassape suppatiṭṭhitaṃ(1)
 

Ô! Được làm phước thiện bố thí đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa, thật là phước-thiện bố-thí vô cùng cao thượng!

 

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc có 5 đức cao quý: giới-đức, định-đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát-tri-kiến-đức đầy đủ, xứng đáng thọ nhận những vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, từ phương xa đem đến làm phước-thiện bố-thí, cúng dường dù ít dù nhiều đến chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, cũng được quả báu của phước-thiện ấy lớn lao vô lượng không sao kể xiết.

 
Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
 
6- Ân-Đức-Tăng Pāhuneyyo
 

Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Pa-hú-nây-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Pāhuneyyo:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

 
Khách quý có 2 hạng:
 

- Khách quý hạng thường đó là bà con thân quyến, bạn bè, những người ân nhân,... của mình trong mỗi kiếp.

 

- Khách quý hạng đặc biệt đó là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác rất hiếm có trong thế gian, bởi vì Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó có, khi nào có Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác trên thế gian, khi ấy mới có chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật.

 

Thật vậy, có khi 1 a-tăng-kỳ đại-kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ thành-trụ-hoại-không, mà không có một Đức-Phật nào xuất hiện trên thế gian, thì cũng không có chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng trên thế gian.

 

Thí chủ làm phước-thiện bố-thí đến khách hạng thường sẽ được quả báu trong kiếp hiện-tại và trong kiếp vị-lai có giới hạn. Còn thí chủ làm-phước bố-thí đến khách hạng đặc biệt là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng sẽ được quả báu lớn lao trong kiếp hiện-tại và trong vô lượng kiếp vị-lai, không có giới hạn.

 

Hơn nữa, phước-thiện ấy lại còn làm phước-duyên cho sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

 

Đối với hạng khách quý là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, người thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, nên tôn kính đón rước, lễ bái cúng dường đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng sẽ được nhiều quả báu cao quý lớn lao vô lượng.

 

Trong bài kinh Kulasutta (1) Đức-Phật dạy:

 

- Này chư tỳ-khưu! Chư tỳ-khưu có giới-đức đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ được 5 quả báu lớn như sau:

 

1- Tỳ-khưu có giới-đức đến gia đình, những người trong gia đình nhìn thấy và phát sinh thiện tâm trong sạch. Những người trong gia đình ấy đã tạo phước- thiện, để được tái sinh lên cõi trời dục giới.

 

2- Khi họ đón tiếp cung kính lễ bái tỳ-khưu ấy, thỉnh ngồi trên những chỗ cao quý. Những người trong gia đình ấy đã tạo phước thiện, để được tái sinh vào trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý.

 

3- Sau khi tỳ-khưu ấy ngồi chỗ cao quý, những người trong gia đình tiếp đãi mọi thứ vật dụng cần thiết như dâng cơm nước, thuốc trị bệnh, … với thiện tâm trong sạch, hoan hỷ, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn,... Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện, để được quả báu quyền cao chức trọng.

 

 4- Khi họ làm phước bố-thí đến tỳ-khưu ấy tùy theo khả năng của mình. Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện, để có được nhiều của cải tài sản, giàu sang phú quý.

 

5- Khi họ lắng nghe vị tỳ-khưu thuyết giảng chánh-pháp, hoặc vấn đạo,... Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện, để phát sinh trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các pháp...

- Này chư Tỳ-khưu! Khi tỳ-khưu có giới-đức đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ tạo được 5 phước-thiện, và được 5 quả-báu cao quý lớn lao như vậy.

 

Khách quý hạng thường là bà con thân bằng quyến thuộc, bạn hữu…mỗi kiếp tử sinh luân hồi đều có được, đều gặp được.

 

Còn khách quý hạng đặc biệt là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng không phải kiếp nào cũng có thể gặp được, gần gũi, thân cận được.

 

Những chúng-sinh nào có đầy đủ phước duyên mới có được cơ hội tốt, có duyên lành gặp được chư Thánh- Tăng, chư phàm-Tăng là chư khách quý hạng đặc biệt cao thượng, những chúng-sinh ấy có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo đón tiếp, tôn kính, lễ bái cúng dường dù ít dù nhiều, chắc chắn cũng sẽ tạo được nhiều phước-thiện lớn lao vô lượng, cũng có được quả báu lớn lao vô lượng, đáng hài lòng cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai, và còn tạo được duyên lành để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Vì vậy, ân-Đức-Tăng này gọi là Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

 
7- Ân-Đức-Tăng Dakkhiṇeyyo
 
Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Đắc-khí-nây-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nơi thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp. Người thí chủ tin tưỏng rằng:

 

“Khi làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, thì họ đã tạo được mọi phước-thiện thanh cao, chắc chắn sẽ phát sinh những quả báu tốt lành, lớn lao vô lượng đến cho họ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

 

Và họ còn có thể hồi hướng phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con quyến thuộc, những ân nhân của họ và và tất cả chúng-sinh khác đã quá vãng.

 

Nếu những chúng-sinh ấy hay biết mà phát sinh thiện-tâm hoan hỷ “sādhu” thì phần phước-thiện thanh cao hoan hỷ (pattānumodanā) ấy sẽ cho quả báu an-lạc đến với họ.

 

Nếu chúng-sinh ấy đang sống trong cảnh khổ thì giải thoát khỏi cảnh khổ ấy, liền tái sinh trong cõi thiện-giới: cõi người hoặc cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an-lạc.

 

Nếu chúng-sinh đang ở trong cảnh an-lạc, thì sự an-lạc càng thêm tăng trưởng.

 

Và họ còn có thể kính dâng phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con thân quyến, bạn hữu, và tất cả chúng-sinh đang hiện hữu trong cõi người.

 

Nếu những người ấy phát sinh thiện tâm hoan hỷ “sādhu” thì phần phước-thiện thanh cao hoan hỷ (pattā-numodanā) ấy sẽ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại, và vô số kiếp vị-lai.

 

 Muốn thành tựu được những quả báu thật sự, thì thí chủ nên làm phước-thiện bố-thí cúng dường hướng đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, bởi vì chư Thánh- Tăng có ân-đức Dakkhiṇeyyo.

 

* Như tích Bố-thí cơm cháy.

 
Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikāvimāna, được tóm lược như sau:
 

Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta nhìn thấy bà đáng thương, nên thường cho nước cơm, cháo, miếng cơm cháy… để bà ăn sống qua ngày.

Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa vừa xả-diệt-thọ-tưởng, rồi xem xét nên đi khất thực, để tế độ người nào. Ngài nhìn thấy một bà già nghèo khổ, gần chết, nếu bà chết, thì có thể đọa địa ngục.

Với tâm bi tế độ bà tránh khỏi cõi địa ngục, do nhờ phước-thiện bố-thí miếng cơm cháy, bà sẽ tái sinh lên cõi trời dục-giới thứ 5 gọi là Hóa-Lạc-thiên.

Xem xét thấy như vậy, buổi sáng hôm ấy, Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở của bà. Trong khi đó, Đức-vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật thực đến, để cúng dường Ngài. Ngài biết người già đó là Đức-vua trời Sakka, nên bảo rằng:

- Này Đức-vua trời Sakka! Đức-vua không nên giành phước-thiện của người nghèo khổ.

Ngài không chịu mở nắp bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia. Bà nghĩ rằng:

 “Ngài Đại-Trưởng-Lão là bậc có giới-đức lớn, được phần đông tôn kính, phận ta nghèo khổ không có gì quý giá để làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài.

Hằng ngày, ta chỉ có nước cơm và miếng cơm cháy không ngon lành gì cả. Vả lại, còn đựng trong một đồ dùng không sạch sẽ, ta nào dám làm phước-thiện bố-thí cúng-dường để bát đến Ngài được”. Nên bà bạch rằng:

- Kính thỉnh Ngài đi nơi khác, con không có gì xứng đáng cúng-dường đến Ngài cả. Bạch Ngài.

Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật thực đến để bát dâng cúng, Ngài vẫn không mở nắp bát để nhận.

Bà già nghĩ rằng: “Chắc chắn Ngài Đại-Trưởng-Lão đứng đây để tế độ ta”.

Bà phát sinh thiện-tâm có đức-tin trong sạch muốn làm phước-thiện bố-thí cúng-dường Ngài, nên bà đem miếng cơm cháy đến, Ngài liền mở nắp bát, bà thành kính cúng-dường, đặt miếng cơm cháy vào trong bát của Ngài một cách tôn kính.

Ngài Đại-Trưởng-Lão tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà nhìn thấy, làm cho bà càng phát sinh thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong việc phước-thiện bố-thí của bà.

Mọi người hiểu được ý Ngài, nên sửa soạn trải chỗ ngồi, rồi kính thỉnh Ngài.

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa ngồi thọ thực miếng cơm cháy ấy, uống nước xong, rồi Ngài thuyết pháp tế độ bà già nghèo khổ ăn mày.

Ngài cho bà biết rằng: Bà đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp.

Nghe Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa cho bà biết như vậy, bà già nghèo khổ phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ có cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài với đức tin trong sạch nơi Ngài. 

Về sau, không lâu bà chết, phước-thiện bố-thí thanh cao ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trong cõi Hóa-Lạc-Thiên (cõi thứ 5 trong 6 cõi trời dục-giới) có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

 

*Tích Sāriputtattheramātupeta(1):

 

Ngạ-quỷ thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta được tóm lược như sau:

 

Nữ ngạ-quỷ mà tiền kiếp của bà đã từng là thân mẫu của tiền kiếp thứ 5 của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta (kể từ kiếp hiện-tại.)

 

Tiền kiếp của nữ ngạ-quỷ là vợ của ông Bà-la-môn giàu có nhiều của cải. Ông Bà-la-môn có đức tin trong sạch, có tác-ý thiện-tâm, thường làm phước-thiện bố-thí cúng-dường vật thực, đồ uống, y phục… đến Sa-môn, Bà-la-môn; bố-thí, phân phát đến những người nghèo khổ, người qua đường…

 

Một hôm, ông Bà-la-môn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay ông gìn giữ phong tục truyền thống gia đình, lo công việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Sa-môn, Bà-la-môn và phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát…

 

Người vợ ở nhà không làm theo lời dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nhà, bà ta buông lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng…

 

Sau khi bà ta chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái sinh vào hàng ngạ-quỷ đói khát, ăn uống đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng… chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do quả của ác-nghiệp của mình đã tạo trải qua thời gian lâu dài.

 

Nữ ngạ-quỷ nhớ lại tiền kiếp đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài, Chư-thiên giữ cổng ngăn cản không cho nữ ngạ-quỷ vào. Nữ ngạ-quỷ thưa với vị Chư-thiên rằng:

- Thưa Chư-thiên, tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, xin Chư-thiên cho tôi được vào hầu Ngài.

 

Nữ ngạ-quỷ được phép vào đứng khép nép, Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta nhìn thấy nữ ngạ-quỷ, với tâm bi mẫn bèn hỏi:

 

- Này nữ ngạ-quỷ! Thân trần truồng, hình dáng đáng thương, ốm yếu da bọc xương, thân mình run rẩy. Ngươi là ai, lão Tăng tế độ ngươi thế nào?

 
Nghe Ngài hỏi, nữ ngạ-quỷ thưa rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do ác-nghiệp cho quả tái sinh làm ngạ-quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn uống những đồ dơ như nước miếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy ra từ xác chết, ăn uống đồ dơ của đàn bà, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, uống máu mủ các loài động vật, sống không có nơi nương tựa, trong các nghĩa địa, bãi tha ma.

- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài làm phước-thiện bố- thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho con. Nhờ phước-thiện ấy, may ra con mới thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ-quỷ như thế này.

 

Lắng nghe lời than vãn của nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp, Ngài Sāriputta phát sinh tâm bi mẫn, tìm cách cứu khổ nữ ngạ-quỷ ấy.

 

Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta thuật lại chuyện này với Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, Ngài Đại-đức Anuruddha và Ngài Đại-đức Mahākappina cứu nữ ngạ-quỷ giải thoát khỏi cảnh khổ.

 

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp Đức-vua Bimbisāra. Đức-vua thỉnh cầu Ngài cần những thứ vật dụng nào để Đức-vua làm phước-thiện dâng cúng.

 

Nhân dịp ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna thưa cho Đức-vua biết chuyện nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, sống trong cảnh đói khổ không có nơi nương nhờ.

 

Nghe vậy, Đức-vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc chỗ ở của chư Tỳ-khưu-Tăng. Khi xây cất xong, Đức-vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta 4 cái cốc ấy.

 

Một lần nữa, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư Tỳ-khưu-Tăng từ bốn phương, có Đức-Phật chủ trì, rồi hồi hướng phần phước thiện này đến cho nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp.

 

Nữ ngạ-quỷ ấy phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí ấy, rồi nói lên lời hoan hỷ  “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Ngay khi ấy liền thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, tái sinh làm thiên-nữ có hào quang sáng ngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ của cải của Chư-thiên, hưởng mọi sự an-lạc cao quý trong cõi trời.

 

Hôm sau, vị thiên-nữ ấy hiện xuống cõi người cùng lâu đài, đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

 

Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna hỏi thiên-nữ rằng:

 

- Này thiên nữ! Ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, nhiều oai lực đặc biệt, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi như vầng trăng sáng, có lâu đài nguy nga tráng lệ.

Do nhờ phước-thiện gì mà ngươi có được những quả báu trong cõi trời, đáng hài lòng như vậy?

 
Vị thiên-nữ bạch với Ngài Mahāmoggallāna rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, trong tiền kiếp con từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, do ác-nghiệp cho quả tái sinh làm nữ ngạ-quỷ chịu cảnh khổ đói khát đành phải ăn uống đồ dơ như máu, mủ….

 

Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cầu xin Ngài có lòng bi mẫn cứu con giải thoát khổ. Ngài đã làm phước-thiện bố-thí xong, rồi hồi hướng đến cho con. Con đã phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phần phước-thiện ấy, nên con giải thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, được hoá sinh làm thiên-nữ trên cõi trời, hưởng được tất cả mọi sự an-lạc như Ngài đã thấy.

 

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là chư bậc Thánh Thiện-trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng-sinh trong đời.

 

Những tích như trên có rất nhiều trong Kinh-Tạng và trong bộ Peṭavatthu, bộ Vimānavatthu.

 

 Nếu chính mình chưa có cơ hội làm phước thiện, mà mình phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện của người khác, thì cũng được quả báu không kém, như tích Vihāravimāna được tóm lược như sau:

 

* Tích Vihāravimāna(1)

 

Một thuở nọ, Ngài Đại-đức Anuruddha ngự lên cung trời Tam-thập-Tam-thiên nhìn thấy một thiên-nữ xinh đẹp có hào quang sáng ngời chiếu tỏa khắp mọi hướng, có một lâu đài nguy nga tráng lệ... nên Ngài hỏi vị thiên nữ rằng:

- Này thiên-nữ! Ngươi đã từng tạo thiện-nghiệp nào mà nay có được quả báu đáng hài lòng như vậy?

 

Vị thiên nữ bạch với Ngài Đại-đức Anuruddha rằng:

 

- Kính bạch Ngài Đại-đức, tiền kiếp của con là người bạn thân của bà đại-thí-chủ Visākhā trong kinh thành Sāvatthi. Bà Visākhā cho người xây cất một ngôi chùa Pubbārama, sau đó, bà làm lễ kính dâng ngôi chùa ấy đến chư Tỳ-khưu tăng có Đức-Phật chủ trì.

Con đã tham dự buổi lễ đó, con phát sinh đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện kính dâng ngôi chùa Pubbārama ấy.

 - Kính bạch Ngài Đại-đức, do nhờ đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí cúng-dường kính dâng ngôi chùa Pubbārama ấy, mà sau khi con chết, thiện-nghiệp ấy cho quả tái sinh lên cõi trời Tam- thập-Tam-thiên này, trở thành một thiên-nữ có những quả báu như vậy.

 

Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của chúng-sinh. Quý Ngài xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng của thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nơi thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp.

 

Thí chủ làm phước thiện bố-thí cúng dường đến quý Ngài, để tạo được phước-thiện thanh cao, mong được quả báu tốt lành đến cho mình và những người thân quyến của mình.

 
Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
 
8- Ân-Đức-Tăng Añjalikaraṇīyo
 
Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Ánh-chá-lí-cá-rá-ni-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Añjalikaraṇīyo:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường, để cầu mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

 

Chư Thánh-Tăng là những bậc có đầy đủ 5 đức-cao-thượnggiới-đức hoàn toàn trong sạch, định-đức vững vàng không lay chuyển, tuệ-đức thấu triệt các pháp, giải-thoát-đức chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, giải-thoát-tri-kiến-đức quán triệt hoàn toàn, đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, nên thân, khẩu, ý của quý Ngài hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh, không còn bị ô nhiễm bởi phiền-não. Cho nên, chư Thánh-Tăng xứng đáng cho tất cả chúng-sinh: Nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên tôn kính, chắp tay lễ bái cúng dường.

 

* Đức Vua trời Sakka đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng trong kinh Saṃghavandanāsutta,(1)được tóm lược như sau:

 

- Này chư Tỳ-khưu! Khi Đức-vua trời Sakka cõi Tam- thập-Tam-thiên ngự xuống từ lâu đài Vejayanta, hướng tâm đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng.

- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, thiên-nam Mātali đánh xe của Đức-vua Sakka tâu rằng:

 

- Muôn tâu Đức-Thiên-Vương, loài người sinh từ nơi ô trọc, có sắc thân ô trọc, thường đói khát nghèo hèn, đáng lẽ nên cung kính Đức-Thiên-Vương. Vì sao Hoàng- Thượng lại đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Vậy, kính xin Hoàng-Thượng giảng giải cho hạ thần hiểu rõ phạm-hạnh của chư tỳ-khưu-Tăng ấy như thế nào?

 

Đức-vua trời Sakka giảng giải cho Mātali rằng:

 

- Này Mātali! Trẫm thành kính đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy, bởi vì, quý Ngài sống trong rừng, không có nhà, không cất giữ lúa gạo trong kho.

Quý Ngài sống bằng hạnh đi khất thực, thọ dụng những vật thực đã chín và độ trước giờ ngọ.

Quý Ngài là bậc thiện-trí, thuyết pháp chân thật đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh, quý Ngài sống nơi thanh tịnh với đời sống phạm hạnh cao thượng.

 

- Này Mātali! Nhóm Chư-thiên có oan trái với nhóm thiên Asura, và ngược lại nhóm thiên Asura cũng có oan trái với nhóm Chư-thiên; nhân loại có oan trái lẫn nhau. còn chư tỳ-khưu-Tăng sống không oan trái, không thù hận. Chư-thiên, nhân-loại còn chấp thủ, còn chư Thánh- Tăng không còn chấp thủ.

 

- Này Mātali! Vì vậy, Trẫm cung kính đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

 

Khinghe lời giảng giải của Đức-vua Sakka như vậy, Mātali bèn tâu rằng:

 

- Muôn tâu Đức-Thiên-Vương, Hoàng-Thượng cung kính lễ bái đến chư tỳ-khưu-Tăng nào, thì kẻ hạ thần cũng cung kính lễ bái đến chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

 

Đức-vua trời Sakka cao cả nhất trong cõi Tam-thập- Tam-thiên giảng dạy xong, cung kính đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng, rồi lên xe ngự đi.

 

Chư Thánh-Tăng là những bậc xứng đáng cho nhân- loại, Chư-thiên, Phạm-thiên, cung kính lễ bái cúng dường, và chư phàm-Tăng là những bậc đang thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ, duy trì chánh pháp của Đức-Thế-Tôn cũng xứng đáng được cung kính lễ bái cúng dường.

 

Những chúng-sinh có đức tin trong sạch nơi Tam- Bảo, thường lễ bái cúng dường đến bậc có giới-đức thanh-tịnh sẽ được 4 pháp lành: sống lâu, sắc đẹp, an-lạc, khỏe mạnh.

 

Như trong tích Āyuvaḍḍhanakūmāravatthu,(1)Đức-Phật thuyết dạy câu kệ rằng:  

 
“Abhivādānasīlissa, niccaṃ vuḍḍhāpacāyino.

Cattāro dhammā vaḍḍhanti, āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ.

 
Đối với người thường lễ-bái cúng-dường,
Tỏ lòng tôn kính đến bậc Trưởng-lão,
Người ấy thường tăng trưởng bốn quả báu,
Sống lâu, sắc đẹp, an-lạc, sức mạnh.
 

Hoặc chúng-sinh có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường đến Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì sẽ được 5 quả báu tốt lành là:

 

- Āyu: Sống lâu trường thọ.

- Vaṇṇa: Có sắc đẹp khả ái.

- Sukha: Thân tâm thường được an-lạc.

- Bala: Có sức mạnh thân tâm

- Paṭibhāṇa: Có trí-tuệ sắc bén, nhanh trí.
 
Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
 
9- Ân-Đức-Tăng Anuttaraṃ Puññakkhettaṃ
 

Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Á-nút-tá-răng pun-nhắc-khết-tăng lô-cắt-xá phá-gá-

 vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

 

Anuttaraṃ puññakkhettaṃ:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, có đầy đủ 5 đức-cao-thượnggiới-đức (silaguṇa), định-đức (samādhiguṇa), tuệ-đức (paññā-guṇa), giải-thoát-đức (vimuttiguṇa), giải-thoát-tri-kiến- đức (vimuttiñāṇadassanaguṇa) là phước điền cao thượng của chúng-sinh không nơi nào sánh được.

 

Thật vậy, khi gieo giống phước-thiện dù ít dù nhiều, cũng sẽ được quả báu vô lượng trong kiếp hiện-tại và cả nhiều kiếp vị-lai.

Một ví dụ để so sánh:
 

- Chư Thánh-Tăng, ví như thửa ruộng màu mỡ.

- Thí-chủ có chánh-kiến, ví như nông dân tài giỏi.

- Tác ý thiện tâm bố-thí, ví như hạt giống tốt.
 

Người nông dân tài giỏi biết rõ thời vụ mùa màng, gieo hạt giống tốt trên thửa ruộng màu mỡ, chắc chắn khi thu hoạch sẽ được nhiều gấp bội.

 

Cũng như vậy, thí-chủ có chánh-kiến-sở-nghiệp kammassakatā sammādiṭṭhi: trí-tuệ chánh-kiến thấy đúng nghiệp là của riêng mình biết gieo giống hợp pháp phước-thiện dù ít dù nhiều nơi chư Thánh-Tăng, hoặc chư phàm-Tăng là phước điền cao thượng của chúng-sinh, không nơi nào sánh được, họ chắc chắn được phước-thiện nhiều vô lượng, sẽ được quả báu vô lượng ngay cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.

 

Hơn thế nữa, gieo được duyên lành nơi Tam-Bảo, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn siêu-tam-giới, hầu mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 
* Tích thiên-nữ Lajādevadhītā (1)
 

Tích thiên-nữ Lajādevadhītāđược tóm lược như sau:

 

Trong thời kỳ Đức-Phật đang hiện hữu trên thế gian, một cô bé nghèo được thuê giữ ruộng, cô mang theo một gói bắp rang để ăn trong ngày.

Sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa xả-diệt-thọ-tưởng xong, xem xét thấy nên tế độ cô bé nghèo, nên Ngài đã mặc y mang bát đi thẳng đến chỗ cô bé để khất thực.

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa từ xa đến, cô bé vô cùng hoan hỷ liền ra đón và đảnh lễ Ngài xong, đem phần bắp rang để ăn trong ngày, cô xin làm phước-thiện bố-thí để bát cúng-dường đến Ngài.

Trong khi cô đang phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Đại- Trưởng-lão, trên đường trở lại chỗ ở, cô bị một con rắn độc cắn chết. Do nhờ phước-thiện cúng-dường ấy cho quả tái sinh kiếp sau, làm thiên-nữ có tên là Lajādeva-dhītā trong cõi trời Tam-thập-Tam-thiên.

Sau đó, khi nhớ lại tiền kiếp của mình, thiên-nữ Lajādevadhītā vô cùng biết ơn Ngài Đại-Trưỡng-lão, cô hiện xuống chỗ ở của Ngài, quét dọn, đem nước dùng..., cho Ngài, nhưng Ngài Đại-Trưởng-lão không cho phép cô làm những công việc ấy, cô buồn tủi khóc.

Đức-Thế-Tôn thấy vậy, liền hiện đến thuyết pháp tế độ thiên nữ. Sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp, thiên nữ Lajādevadhītā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu. Cô vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời.

 
* Tích ông Puṇṇa
 

Tích ông Puṇṇa (1) là người làm thuê của ông phú hộ Sumana, được tóm lược như sau:

 

Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama đang hiện hữu trên thế gian, có gia đình ông Puṇṇa nghèo khổ, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 

Một buổi sáng ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xả-diệt-thọ-tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài đi về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng.

 

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống.

 

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xong, bạch rằng:

 

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực nghèo nàn này của gia đình chúng con.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực. Bà vô cùng hoan hỷ phát nguyện:

 

Do nhờ phước-thiện bố-thí cúng-dường thanh cao này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần chánh-pháp mà Ngài đã chứng đắc.

 
Ngài Đại-đức Sāriputta chúc lành rằng:
Mong cho gia đình các con được như ý nguyện.
 

Bà vô cùng hoan hỷ quay trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, rồi vội vàng mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Trưởng-lão Sāriputta, làm cho thân tâm của bà cảm thấy nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.

 

Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ ăn, đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng mát cây, chờ đợi vợ, tuy đói bụng, nhưng tâm hoan hỷ niệm tưởng lại việc làm phước-thiện bố-thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

 

nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà có điều hoan hỷ gì đó.

Thật vậy, vừa đến nơi, Bà liền thưa với chồng rằng:

- Thưa anh kính yêu, hôm nay, xin anh phát sinh thiện-tâm hoan hỷ thật nhiều!

Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh thiện-tâm có đức tin trong sạch, đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài.

Không chê vật thực nghèo khó của chúng ta, Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ bi tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh.

Vậy, xin anh nên phát sinh thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí cúng-dường thanh cao này.

 

Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sinh thiện-tâm hỷ-lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn lời nói của vợ ông. Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

- Này em! em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện bố-thí của vợ, bà đã đem phần cơm của mình làm phước-thiện cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

 

Sau đó, ông nói cho vợ biết, cũng sáng nay, ông đã làm phước-thiện bố-thí cúng-dường cây tăm xỉa răng và nước dùng đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

nghe xong, bà cũng phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ việc phước-thiện bố-thí của chồng.

Hai vợ chồng cùng nhau phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước thiện cúng-dường đến Ngài Trưởng-lão.

 Dùng cơm xong, ông nằm niệm tưởng đến phước- thiện bố-thí cúng-dường của mình, mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày buổi sáng nay, đã hóa thành những thỏi vàng ròng, làm cho ông hoa cả mắt, và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy.

Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng, ông đem đến khoe và nói với vợ rằng:

- Này em! Vợ chồng chúng ta đã làm phước-thiện bố- thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, phước-thiện bố-thí cúng-dường ấy liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta ngày hôm nay.

Chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được!

 

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức-vua và tâu rằng:

- Muôn tâu Đức-vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những thỏi vàng ròng.

Kính xin Đức-vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở số vàng ấy về cất trong kho báu của Đức-vua.

 
Đức-vua truyền hỏi rằng:
- Nhà ngươi là ai?

- Muôn tâu Đức-vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê.

- Này Puṇṇa! Sáng nay, nhà ngươi đã làm phước-thiện gì đặc biệt?

- Muôn tâu Đức-vua, tiện dân làm phước-thiện cúng- dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, còn phần vợ tiện dân làm phước-thiện bố-thí cúng-dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

 
Đức-vua truyền rằng:

- Này Puṇṇa! Vợ chồng ngươi đã làm phước-thiện bố- thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cho nên, quả báu phát sinh ngay trong ngày hôm nay.

Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?

- Muôn tâu Đức-vua, tiện dân kính xin Đức-vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

 

Đức-vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong triều nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức-vua”, tức thì những thỏi vàng trở lại thành đất như cũ. Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức-vua sự việc xảy ra như vậy.

 
Đức-vua sáng suốt bèn truyền rằng:

- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức-vua”.

 
Đức-vua truyền rằng:

- Này các ngươi! Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người hãy trở lại nghĩ và nói rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số vàng ấy về đây.

Quân lính vâng lệnh Đức-vua trở lại nơi ấy. Thật vậy, lần này quân lính khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

 
Ông Puṇṇa Trở Thành Đại Phú Hộ
 

Đức-vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn truyền hỏi rằng:

- Này toàn thể dân chúng! Trong kinh thành này, người nào có số vàng lớn như thế này không?

 
Toàn thể dân chúng trong thành tâu:

- Tâu Hoàng-Thượng, trong kinh thành không có người nào có số vàng lớn như thế này cả.

Đức-vua truyền hỏi tiếp.

- Vậy, Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?

- Tâu Hoàng-Thượng, xin Hoàng-Thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

 
Đức-vua phán rằng:

- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là Đại-phú-hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi: Đại-Phú-hộ nhiều của cải

.

Sau khi trở thành đại-phú-hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, làm phước- thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì suốt 7 ngày.

đến ngày thứ 7 Đức-Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông bà Puṇṇa và đứa con gái tên Uttarā đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, cả 3 đều trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta sau khi xả-diệt-thọ-tưởng, do năng lực phước-thiện bố-thí cúng-dường trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, đã thành tựu đại-phú-hộ nhiều của cải trong cõi người (manussasampatti) và đặc biệt thành tựu Niết-bàn (Nibbānasampatti) là chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn toàn gia đình trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu nữa.

 

Những trường hợp trên, có không ít trong Phật-giáo.

 

Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của tất cả chúng-sinh: Nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên,... làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư Thánh-Tăng với thiện-tâm trong sạch, sẽ được thành tựu quả báu cõi người, thành tựu quả báu cõi trời (devasampatti) và đặc biệt thành tựu quả báu chứng ngộ Niết-bàn.

 

 Quả Báu Bố-Thí Đến Tỳ-Khưu-Tăng

 

 Thí chủ phát sinh thiện-tâm trong sạch có đức-tin nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, dù làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư phàm-Tăng vẫn được thành tựu quả báu không kém.

Thật vậy, Đức-Phật dạy Ngài Đại-đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda! Trong thời vị-lai, sẽ có hạng người có tên “Bhikkhu: Tỳ-khưu”, chỉ còn mảnh y quấn cổ (hoặc cột ở cổ tay), là người phạm-giới, hành ác-pháp. Song những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có tác-ý thiện-tâm làm phước-thiện bố-thí hướng tâm đến cúng-dường chư tỳ-khưu-Tăng, dù có số tỳ-khưu phạm-giới ấy.

- Này Ānanda! Người thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng trong thời vị-lai ấy, Như-Lai dạy rằng:

Thí chủ vẫn có phước-thiện vô-lượng và quả báu vô- lượng không sao kể xiết được.

Như-Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng:

Thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến cá- nhân thọ-thí, sẽ có phước-thiện nhiều hơn và có quả báu nhiều hơn làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu Tăng thọ thí. ([7])

 

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

Thực-Hành Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Tăng

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng này, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp đầy đủ 9 ân-Đức-Tăng. Mỗi khi niệm đến ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Tăng ấy.

 Sau đó, để đại-thiện-tâm dễ phát sinh, hành-giả nên ngồi nghiêm trang trước tượng Đức-Phật hoặc trước cội cây Đại-Bồ-đề, hoặc một nơi thanh vắng, để thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng này.

 
Phương-pháp thực-hành có nhiều cách:
 

1- Cách phổ thông: Niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng theo bài kinh Dhajaggasutta như sau:

 

Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭi-panno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha-purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhunēyyo, Dakkhineyyo, Añjalīkaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” 

 

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Tăng ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm- niệm 9 ân-đức-Tăng, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức-Tăng-Bảo.

 

2- Cách phân tách câu: 9 ân-Đức-Tăngphân tách từng câu như sau:

 

1- Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

2- Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

3- Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

4- Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ,

5- Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho,

6- Pāhunēyyo, Bhagavato sāvakasaṃgho,

7- Dakkhineyyo, Bhagavato sāvakasaṃgho,

8- Añjalīkaraṇīyo, Bhagavato sāvakasaṃgho,

9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho…

 

Hành-giả thực-hành niệm mỗi câu ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của mỗi câu ân-Đức-Tăng ấy, định-tâm theo dõi mỗi câu ân-Đức-Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 

Hành-giả cũng có thể chọn 1 hoặc 2 - 3, … câu ân-Đức-Tăng nào trong 9 câu Ân-Đức-Tăng làm đối-tượng, để thực-hành niệm-niệm câu ân-Đức-Tăng ấy. Ví dụ:

 
* Niệm-niệm ân-Đức-Tăng thứ nhất: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,…”
 

* Niệm-niệm ân-Đức-Tăng thứ ba: Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ….” hằng trăm lần, hằng ngàn lần, trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm Ân-Đức-Tăng ấy, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.  

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Tăng ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

 

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng là một đề-mục-thiền-định dễ làm cho phát sinh đức tin nơi Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, mà đức- tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.

 

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng là đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên, nên hành-giả không thể định-tâm một nơi nào nhất định. Cho nên, đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng  này chỉ có khả năng chứng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

 

Vì vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm có dục-giới đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với hành-giả là người đã gieo duyên lành, nhân tốt sâu sắc trong giáo pháp của Đức-Phật.

 

Tuy nhiên, tâm cận-định này có thể làm nền tảng, làm đối tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, diệt tận tham-ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được.

 
Như Đức-Phật dạy:
 

- Này chư Tỳ-khưu! Có một pháp-hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

 
Pháp-hành ấy là pháp gì?
 
Pháp-hành ấy là Saṃghānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng.
 

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”(1)

 

Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng không chỉ là đề-mục của pháp-hành-thiền-định mà còn làm nền tảng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ nữa. 

 

(Phần thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ cũng có phương-pháp thực-hành tương tự như đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã trình bày ở phần trước.)

 

Quả Báu Đặc Biệt Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Tăng  

 

Do năng lực của dục-giới đại-thiện-nghiệp đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng này sẽ cho quả báu hầu hết cũng giống như đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã trình bàyở phần trước. 

 

(Xong đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng)



[1]Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.

[1] 15 pháp chướng ngại: Tham dục, thù hận, buồn chán - buồn ngủ, phóng tâm - hối hận, hoài-nghi.

[2] 7 pháp phiền-não ngủ ngầm trong tâm: Ái-dục ngủ ngầm, kiếp-ái ngủ ngầm, sân-hận ngủ ngầm, ngã-mạn ngủ ngầm, tà-kiến ngủ ngầm, hoài-nghi ngủ ngầm và vô-minh ngủ ngầm.

[1] Vāsanā: Tiền khiên tật này, bậc Thánh-Thanh-văn không thể diệt được, Bậc Thánh-Thanh-văn A-ra-hán chỉ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1.500 loại phiền-não và 108 loại tham-ái mà thôi, nhưng không thể diệt được mọi tiền khiên tật đã tích luỹ từ vô số kiếp ở quá-khứ.

[3]Abhidhammapiṭaka Bộ Vibhaṅgapāḷi.

[4] Bhavo: Hữu là Sự sinh có 2 loại: Sự sinh của nghiệp và Sự sinh của quả nghiệp đó là tái sinh kiếp sau.

[1] Saṃyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta.

[1] Chư Phật-Độc-Giác cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc Giác, mà Ngài không thuyết pháp tế độ chúng-sinh khác cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, bởi vì, Ngài không chế định được ngôn ngữ để thuyết pháp như Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

Còn bậc Thánh-Thanh-văn, sở dĩ thuyết pháp tế độ chúng-sinh được là do nhờ nghe học hỏi theo lời giáo huấn của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

[1] Vivaṭṭathāyī asaṅkhyeyyakappa: a-tăng-kỳ kiếp trụ của trái đất.

[2] Đại-kiếp (mahākappa): trải qua 4 a-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không của kiếp trái đất.

[1] Aṅguttaranikāya - Aṭṭhakanipata, kinh Dīghajāṇusutta.

[2] Tránh 5 nghề: Nghề buôn bán vũ khí, nghề buôn bán người hoặc súc vật, nghề buôn bán rượu và các chất say, nghề buôn bán các loại thuốc độc sát hại chúng-sinh, nghề giết gia súc, gia cầm để bán thịt.

[1] Cách làm cho của cải phát triển: Kết bạn với bậc thiện trí, không ăn chơi đàng điếm, không uống rượu, không chơi cờ bạc.

Cách làm cho của cải tiêu hao: Kết bạn với người ác, ăn chơi đàng điếm, uống rượu, chơi cờ bạc.

[1] A-tăng-kỳ dịch âm từ Pāḷi: Asaṅkhyeyya nghĩa là vô số.

[1] Đại kiếp trái đất dịch từ danh từ Pāḷi: mahākappa: Thời gian kiếp trái đất trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không.

[1] Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta…

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi

[5] Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[1] 11 thứ lửa: Lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống khổ cùng cực.

[1] Aṅguttaranikāya, phần Tikanipāta, kinh Brahmaṇasutta.

[1] Aṅguttaranikāya, phần Tikanipāta, kinh Nibbutasutta.

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi

[6] Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[1] Bộ chú giải Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta.

[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā tích Mahākassapattherapiṇḍapātadinnavatthu.

[1] Aṅguttaranikāya, kinh Kulasutta.
1 Bộ Petavatthu, tích Sāriputtattheramātupeta.
[1] Bộ Vimānavatthu, tích Vihāravimāna.

[1] Samyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Sanghavandanāsutta

1Dhammapadagāthā, Tích Āyuvaḍḍhanakūmāravatthu 
[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Lajādevadhītā.

[1] Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, trong tích Uttarā upāsikā.

[7] Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa, kinh Dakkhiṇavibhaṅgasutta

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024