Chương 3:
Thấy biết trong sáng
(Tỉnh giác)

Thấy biết là khả năng tự nhiên trong quá trình phát triển tri thức và trí tuệ con người. Thấy biết phát sinh khi các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với những đối tượng (màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị chất, vật xúc, ý tượng). Sự tương giao giữa hai yếu tố căn môn và trần cảnh làm phát sinh thấy biết tương ứng; từ đó hình thành khái niệm, tư tưởng, quan niệm, chủ trương, lý luận v.v... trong quá trình tất yếu của nhận thức và phán đoán, nhờ đó con người tiến hóa, phát triển nhanh hơn bất kỳ sinh vật nào khác trên trái đất.

Nếu một người không có khái niệm gì về sự vật xung quanh, không có khả năng tư duy, phán đoán, không biết suy luận, tưởng tượng, không biết phê bình, đánh giá, không biết phân biệt, chọn lọc, hay không hiểu được ngôn ngữ truyền thông từ bên ngoài v.v... thì anh ta vẫn mãi là một kẻ thiểu năng, đần độn, khù khờ bất hạnh.

Trong cộng đồng xã hội, con người ưu việt hơn các loài khác nhờ biết quan hệ, tương tác, giao tiếp với nhau để qui định ra ngôn ngữ, chữ viết, biểu tượng, mã số v.v... hầu có thể truyền đạt ý nghĩ, thông tin nhiều chiều, nhiều mặt, phong phú và đa dạng một cách dễ dàng, thuận lợi. Từ đó, giáo dục, luật lệ, lễ nghi, nguyên tắc luân lý, qui phạm đạo đức, định ước xã hội v.v... đã được hình thành. Không ai có thể phủ nhận được quá trình tiến hóa tuyệt vời của con người từ đời sống hoang dã cổ xưa cho đến nền văn minh hiện đại.

Tuy nhiên, lạ lùng thay, nếu tính toán để tìm chỉ số hạnh phúc bình quân đầu người thì chúng ta không chắc gì con người văn minh hiện đại đã hạnh phúc hơn những người hồng hoang xưa cổ! Điều chắc chắn là chúng ta có thể thấy rõ rằng tiện nghi vật chất vẫn chưa bù đắp được những nỗi lo âu, sợ hãi, căng thẳng, khổ sầu mà con người văn minh hiện đại phải gánh chịu.

Chính những thành quả ưu việt do con người sáng chế, qui định cho tiện ích của mình đã trở thành những khuôn khổ ràng buộc lại mình. Qua sự tưởng tượng phong phú của con người, những tư tưởng, quan niệm, chủ trương, giáo điều, triết thuyết nghe ra tuyệt vời nhất, bi khốn thay, đã dễ dàng đóng băng để trở thành thành kiến cố chấp, mâu thuẫn đối kháng mà hậu quả tất nhiên là chiến tranh, khủng bố, sợ hãi, khổ đau...

Tất cả những điều này đều phát xuất từ thấy biết sai lầm mà đức Phật gọi là tà kiến. Nhận thức của con người thường thể hiện qua tưởng tượng, hoặc dựa trên những kiến thức mà phần lớn do con người qui định, hơn là trực nhận sự thật một cách khách quan bằng trí tuệ. Vì vậy, những sản phẩm có được từ tưởng tượng và kiến thức đều không khỏi chủ quan, không đáng tin cậy. Ngay cả khoa học, dù khách quan đến đâu, cũng vẫn đi từ giả thuyết đến kiểm chứng rồi kết luận. Nên nhiều kết luận khoa học trước đây được công nhận tưởng đã là định luật vĩnh cửu thì chẳng bao lâu bị chứng minh là khiếm khuyết, sai lầm hoặc lạc hậu. Những kiến thức có từ tưởng tượng, giả thuyết, suy đoán, lý luận, định nghĩa v.v... có thể đúng với qui ước mà xã hội công nhận, được gọi là tục đế, nhưng không đúng với tự thân sự thật mà Phật giáo gọi là chân đế.

Nhìn kỹ hơn, chúng ta dễ dàng thấy rằng không ít những quy định xã hội không phản ánh trung thực sự thật khách quan, vì phần lớn những qui định này phát xuất từ những tình cảm chủ quan hoặc lý trí phiến diện. Chính vì vậy, có vô số tư tưởng, quan niệm, chủ trương khác biệt, mâu thuẫn, đối kháng lẫn nhau, tạo ra những thành kiến cố chấp, đưa đến hiểu lầm, bất mãn trong mối quan hệ giữa những thành viên trong gia đình, đoàn thể, phe phái hay trong toàn thể cộng đồng xã hội. Điều này, tất nhiên, đưa đến biết bao khốn khổ cho loài người, như chúng ta đã từng chứng kiến hàng ngày ở khắp mọi nơi.

hai thái độ tâm trong sự thấy biết, một là thái độ trung thực, khách quan, hai là thái độ sai lạc, chủ quan. Thấy biết dẫn đầu mọi hành động, nói năng và suy nghĩ. Cho nên, thấy biết với thái độ đúng sẽ đưa đến ứng xử đúng đắn, tốt đẹp, nhưng với thái độ sai sẽ đưa đến xử sự xấu xa, lệch lạc.

Vậy, thế nào là thấy biết với thái độ trung thực, khách quan? Đó là sự thấy biết trong sáng, tĩnh tại, trực tiếp trên đối tượng; không bị che lấp bởi ý niệm, tư tưởng, quan niệm hay tình cảm chủ quan nào; không thông qua khái niệm hình tướng, tên gọi, hay biểu tượng nào; không vướng mắc trong chủ trương, thành kiến, truyền thống, tập tục hay giáo điều lý tưởng nào. Ngay khi chúng ta thực sự thư xả, nghỉ ngơi hoàn toàn, là tâm chúng ta đang trọn vẹn với thực tại hiện tiền, và ngay đó, sự thấy biết trực tiếp sẽ phát huy tác dụng tự nhiên, khách quan và trung thực.

Ít khi chúng ta chịu buông tư ý tư dục xuống để cho định, tuệ tự vận hành một cách độc lập, mà thường cố gắng sở đắc cái gọi là định tuệ mà thực chất chỉ là mục tiêu chủ quan của lòng tham vọng! Thế là chúng ta bắt đầu lăng xăng tạo tác, đuổi bắt những giả tưởng bất định của cái mà chúng ta ước mong đạt được! Rồi chuyện gì xẩy ra? Chính tư kiến, tư dục trong thái độ chủ quan của bản ngã, làm phân tán tâm trực nhận trọn vẹn. Như Đức Phật đã cảnh báo: “Quả thật, trong sự sụp đổ của mình, người ngu cầu đắc kiến thức và danh vọng (mà không biết rằng) điều đó phá hủy phần sáng của nó và chẻ đầu nó làm hai!”  (PC 72).

Để dễ hiểu, chúng ta tạm chia ra ba loại thấy biết:

1) Thấy biết của trực giác giác quan, đó là sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm phát sinh từ sự tương giao giữa các giác quan và đối tượng tương thích. Mặc dù được gọi là trực giác nhưng vẫn bị giới hạn bởi điều kiện của giác quan và đối tượng, nên tương đối và bất toàn. Tuy nhiên, nó chưa bị bóp méo một cách chủ quan bởi lý trí vọng thức. Trực giác giác quan là tâm bẩm sinh, thụ động, không tạo tác. Dù tương đối và đơn giản nó vẫn hữu dụng như phương tiện cơ bản của nhận thức.

2) Thấy biết của lý trí, đó là những khái niệm, tư tưởng, quan niệm, kiến thức hữu hạn v.v... phát xuất từ học hỏi, tư duy, phân tích, so sánh, lý luận, quy ước v.v... Chẳng hạn như, chúng ta biết rằng người Việt đội khăn trắng là để tang, trong khi người Pháp lại đeo băng đen. Hoặc lái xe bên phải, người Anh cho là sai phạm, ngược lại người Mỹ cho là đúng luật. Đây là loại thấy biết chỉ có giá trị trong phạm vi ước định, có thể thay đổi cho phù hợp với thời gian, không gian, bởi bất cứ sự đồng thuận nào của mỗi cộng đồng xã hội.

3) Thấy biết của trí tuệ, đó là tri nhận trực tiếp đối tượng thực tánh, không lệ thuộc vào kiến thức, định lượng, suy tưởng, phân tích, so sánh, lý luận v.v… Thực tánh là bản chất tự nhiên, là sự thật phổ biến ở khắp mọi nơi, mọi thời, tự vận hành theo nguyên lý nội tại, không biến đổi bởi quan niệm của cộng đồng xã hội hay qui định chủ quan nào. Ví dụ, dù không biết tên gọi “nước đá”, chúng ta vẫn cảm nhận được tính cứng, lạnh, trơn ướt của nó, bất cứ nơi đâu và lúc nào.

Cả ba loại thấy biết này không thể thiếu trong hầu hết sinh hoạt đời sống. Đương nhiên, chúng ta phải theo những luật lệ hay qui định đúng, tốt, vì đó là lẽ phải giữa đời thường (tục đế), và vì lợi ích chung cho mọi người trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, sống trong tiện ích đời thường chúng ta cũng không nên quên đi sự thật rốt ráo vốn vẫn luôn là bản chất thật (chân đế) trong cốt lõi đời sống của muôn loài. Bỏ quên thực tánh, chạy theo giả tướng chính là nguyên nhân của tất cả nỗi bất hạnh mà loài người đang phải gánh chịu.

Vậy chúng ta có thể cân bằng ba loại thấy biết này bằng cách thử lắng nghe, quan sát, thể nghiệm thực tại đang là một cách lặng lẽ, hồn nhiên, khách quan, trong sáng được không?

Không cần nỗ lực nào để thủ đắc thấy biết trực tiếp của tuệ giác, nó sẽ đến tự nhiên, bất ngờ khi tâm cởi mở, buông xả và trong sáng. Vì ngay khi chúng ta cố tình muốn làm gì để sở hữu nó thì nó lập tức biến mất. Một khi bạn háo hức muốn biết, hay muốn được nó thì bạn liền tạo ra tiến trình nhân quả, tư tưởng và cái “tôi”. Đó không phải là tuệ giác đích thực mà chỉ là kiến thức lý trí. Tri thức có thể tốt, nhưng chắc chắn chỉ là tương đối, hạn hẹp trong cái đã biết, không phải là thấy biết trung thực, thấu suốt trực tiếp thực tánh của mọi sự mọi vật.

Tuy nhiên, cũng không cần phải cố gắng loại bỏ thấy biết của lý trí. Dù tương đối, nó vẫn hữu dụng trong nhiều lãnh vực. Và nó sẽ rút lui một cách tự nhiên khi tỉnh giác xuất hiện, bởi vì thấy biết của lý trí không thể tồn tại trên đối tượng thực tánh của tuệ giác.

Trong Thiền Vipassanā, chánh niệm có nghĩa là chú tâm miên mật hay trọn vẹn với thực tại; tỉnh giác là thấy biết trong sáng, minh bạch, không mê mờ trên thực tại đó.

Ngay khi thư giãn, buông xả, thân tâm được nghỉ ngơi, thanh thản, hồn nhiên và hài hòa trọn vẹn với thực tại, đó là chánh niệm. Đồng thời, sự thấy biết lặng lẽ, trong sáng cũng tự tỏa chiếu. Đó là thấy biết tỉnh giác hay tuệ giác.

Lưu ý là hai yếu tố chánh niệm và tỉnh giác luôn đi đôi với nhau và bổ túc cho nhau trong thiền Vipassanā. Tuy chúng có chức năng khác nhau nhưng cùng chung một đối tượng thực tánh. Chánh niệm chú tâm trọn vẹn trên đối tượng, trong khi tỉnh giác thấy biết đối tượng ấy một cách trung thực, khách quan và trong sáng. Như một tấm gương, nếu chánh niệm hướng vào đối tượng đủ vững vàng và trọn vẹn, thì lập tức tỉnh giác phản ánh rõ ràng trung thực đối tượng ấy. Nếu tạp niệm, như tấm gương giao động, hay thất niệm giống như tấm gương mất hướng đối tượng, thì thất giác sẽ khởi lên với đối tượng chập chờn mờ nhạt, như tấm gương không phản ánh trung thực.

Chánh niệm đã được giới thiệu trong chương 2. Bây giờ chúng ta nói riêng về tỉnh giác trong chương 3, để dễ phân biệt chức năng và đặc tính của hai yếu tố này.

Vì cả hai có cùng đối tượng nên chúng ta sẽ lấy lại những thí dụ điển hình làm đối tượng cho chánh niệm để xem tỉnh giác thể hiện chức năng của mình trên đó như thế nào:  

- Khi bạn đang thở, thử quan sát khách quan, minh bạch trạng thái thở tự nhiên (chứ không phải hơi thở) đang diễn ra trên thân. Chỉ cần lặng lẽ trực nhận, hay thấu rõ trạng thái thở mà không gia thêm ý niệm nào, cũng không áp dụng theo bất cứ phương pháp nào. Đừng cố gắng thở theo một qui trình định sẵn vì mục đích định tâm hay tìm biết điều gì trong đó. Làm như vậy là bạn tự ràng buộc mình trong giới hạn của lý trí và dục vọng. Vô tình bạn bị rơi vào giữa hai thế lực tham và sân. Hay nói cách khác, bạn đang bị tham ưu thúc đẩy, trong khi đức Phật dạy chúng ta đừng bao giờ để tham ưu xen vào giữa chánh niệm, tỉnh giác thì mới thấy được thực tánh.

- Khi đang đi, bạn thử tri nhận trọn vẹn trạng thái diễn biến của tư thế đi, không phân tâm, không gán ghép vào nó ý niệm nào khác. Thường thì thay vì thấy trạng thái diễn biến của động tác đi đơn thuần, chúng ta lại có khuynh hướng thêm vào đó ý niệm “tôi”. Ví dụ, đang đi trên đường, nếu có ai hỏi bạn “Anh đi đâu đó?” Bạn liền trả lời “Tôi đi làm”. Thực ra, trong câu trả lời này, “tôi” chỉ là một ý niệm giả định, “làm” là một hành động chưa xảy ra, chỉ có “đi” là trạng thái thật đang diễn tiến, đó là thực tại sinh động. Vậy mà xem ra ý niệm “tôi” và “làm” không hiện thực lại có vẻ như quan trọng hơn chính sự sống đang là! Khi bạn đang đứng, ngồi hay nằm cũng vậy, hãy tri nhận rõ ràng sự diễn biến ngay trong tư thái đó.

- Thấy biết bén nhạy hơn, như một tấm gương, bạn có thể phản ánh trung thực và trọn vẹn nhiều trạng thái thân hành khác nhau trong khi đang lái xe, tắm rửa, mang giày, đội nón hay làm bất cứ việc gì mà không cần thêm thắt quan niệm nào cả.

- Sâu sắc hơn, bạn thử cảm nhận một cách vô tư, trung thực, những cảm giác đang xảy ra nơi thân hay tâm bạn, không tham gia một phản ứng tâm lý chủ quan nào. Rất khó tỉnh giác thực sự đối với các cảm thọ, vì chúng ta có thói quen ưa thích những cảm giác lạc, ghét bỏ những cảm giác khổ nên ít khi nhận biết cảm giác một cách khách quan, trung thực. Chính vì vậy mà chúng ta có thái độ phản ứng thiếu chính xác đưa đến xử sự hay hành động sai lầm để rồi nhận lấy hậu quả tai hại.

- Vi tế hơn nữa là thấy được trạng thái tâm ngay khi nó khởi lên trên một đối tượng nào đó. Ví dụ, bạn thấy một đóa hoa, tâm ưa thích khởi lên, nhưng bạn quá chú ý đến màu sắc, hình dáng, hương thơm của đóa hoa, nên không thấy tâm ưa thích của bạn đã khởi lên lúc nào và như thế nào. Có thể có bốn hạng người trong trường hợp này. Hạng thứ nhất không biết ở đâu và khi nào ưa thích khởi lên! Hạng thứ hai chỉ nhớ lại sau khi lòng ham muốn đã đi qua! Hạng thứ ba không thấy tâm ưa thích sinh diệt lúc nào, nhưng nửa chừng có phát hiện được nó! Hạng thứ tư thấy được tâm ưa thích ngay khi mới khởi lên cùng với toàn bộ diễn trình sinh-trụ-diệt của nó.

- Cũng vậy, đối với những trạng thái tâm khác như từ ái hay hận thù, ổn định hay tán loạn, trói buộc hay thanh thoát, vướng mắc hay tự tại... người trí đều thấy biết như một tấm gương phản ánh trung thực, không tham gia vào đó bất cứ phản ứng tâm lý chủ quan nào.

Thấy biết trong sáng giúp chúng ta:

- Điều chỉnh tà kiến: Tà kiến là những quan niệm sai lầm hay chủ trương lệch lạc về chính mình, cuộc đời, hoàn cảnh xung quanh, vũ trụ vạn vật. Ví dụ, Thuyết Thường Ngã, Định Mệnh, Đấng Tạo Hóa, không có nhân quả nghiệp báo, mọi hiện tượng đều ngẫu nhiên, chủ trương hạnh phúc tùy thuộc vào điều kiện vật chất hoặc do Thần linh ban thưởng v.v... Những quan niệm võ đoán này, dù phát xuất từ niềm tin cá nhân hay tập thể, một dân tộc hay cả nhân loại - thì cuối cùng vẫn sẽ đưa đến kết quả khổ đau, bất hạnh. Chỉ có người thấy biết trong sáng tự mình chứng nghiệm sự thật khách quan mới có thể điều chỉnh được những tà kiến này.

- Phá vỡ định kiến: Định kiến hay thành kiến là những quan điểm, phán đoán hoặc kết luận cố chấp, bảo thủ, một chiều, không chịu xét lại, thay đổi hay sửa sai. Ví dụ như trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp, kỳ thị chủng tộc v.v... Định kiến cản trở sự sáng tạo, sự tiến hóa, làm cho khó có được một nhận thức khách quan, trung thực. Chỉ có thấy biết trung thực bản chất thực tại, chúng ta mới có thể chấm dứt được những thành kiến, cố chấp nguy hại này.

- Thoát khỏi hoài nghi: Hoạt động của lý trí thường đi đôi với hoài nghi, phân vân, do dự, lưỡng lự, bất quyết v.v... Nghi ngờ một điều gì đó chưa hẳn là hoài nghi, chỉ vì chưa kiểm chứng nên chưa xác định mà thôi. Nghi ngờ là một thái độ sáng suốt, tự tin, trong khi tâm trạng phân vân, lưỡng lự, mập mờ, thiếu dứt khoát, thiếu tự tin trên một đối tượng mới thực sự là hoài nghi. Chính hoài nghi đi đôi với si mê làm tâm chúng ta phân tán, suy yếu, không có khả năng quyết định hay chú tâm. Nhờ sự chú tâm lắng nghe, quan sát khách quan mà sự thấy biết được trong sáng, tự tin và thoát khỏi tâm trạng hoài nghi bất nhất này.

- Vượt qua sự hạn hẹp của ý niệm, ngôn từ và biểu tượng: Con người sáng chế ra khái niệm ngôn ngữ và biểu tượng đem lại rất nhiều tiện ích, nhất là trong lãnh vực truyền đạt tư tưởng. Tuy nhiên, bản chất của những khái niệm này là tương đối, khiếm khuyết, mâu thuẫn, bất nhất và dễ gây hiểu lầm. Vì vậy, chúng chỉ có thể cung cấp những kiến thức cục bộ, phiến diện và thiếu chính xác. Qua đó, dĩ nhiên, không thể thấy biết sự thật một cách trung thực và toàn diện được. Sự thật chỉ được hiển bày khi sự thấy biết trong sáng, không bị che lấp bởi quan niệm nào.  

- Hóa giải những chướng ngại tiềm ẩn bên trong: Đức Phật gọi những chướng ngại này là những phiền não ngủ ngầm (anusaya) nằm sâu lắng trong tiềm thức, chẳng hạn như tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, đố kỵ, ganh ghét, cố chấp v.v... vượt ngoài hoạt động của lý trí. Chỉ có sự thấy biết tuệ giác trong sáng mới thâm nhập vào tận tiềm thức để hóa giải những chướng ngại tiềm ẩn, vi tế này.

Hỏi:

- Theo tôi được biết, trực giác giác quan có thể là ảo giác nên vẫn sai lầm. Ví dụ, nhìn chỗ hai đường thẳng song song bị cắt bởi một đường chéo, chúng ta thấy dường như cự ly ở đó rộng hơn, nhưng thực tế thì số đo vẫn bằng nhau. Như vậy thấy biết qua trực giác giác quan đâu đáng tin cậy?

Đáp:

- Đúng vậy! Trực giác giác quan dĩ nhiên có thể bị đánh lừa bởi ảo giác, nhưng đúng sai của ảo giác chưa thành vấn đề. Chỉ khi rơi vào khái niệm (paññatti), ngôn từ (nāma), vọng tưởng (citta vipallāsa), vọng kiến (diṭṭhi vipallāsa) mới chính là ảo tưởng, cái sai nguy hại của vô minh (avijjā). Nhưng trực giác trong chánh niệm - tỉnh giác là tuệ giác hay trí tuệ lại là sự thấy biết trực tiếp vượt ngoài ý niệm, không thể bị chi phối bởi bất kỳ phán đoán, kết luận nào, chẳng hạn như khái niệm đúng sai, xấu đẹp, thiện ác v.v...

Khi bạn nói: “Hai, đường thẳng, đường chéo, giao nhau, cự ly, rộng hẹp, số đo, v.v...” tất cả đều dựa trên những khái niệm, ý tưởng, phải không? Đó không còn là trực giác giác quan thuần túy nữa, mà đã trở thành kiến thức quy ước rồi. Ảo giác của trực giác giác quan không ảnh hưởng đến tuệ giác được đề cập trong thiền tuệ Vipassanā.

Hỏi:

- Chỉ với thấy biết trực tiếp như thầy nói, mà không lo liệu gì cho những kế hoạch tương lai thì làm thế nào có thể thực hiện được những dự án đòi hỏi nhiều sự cân nhắc và tính toán cẩn thận trước được?

Đáp:

- Đó là băn khoăn của rất nhiều người. Ngày nay, rõ ràng là trước khi bạn thực hiện một dự án nào cần phải có những kế hoạch khả thi. Tất nhiên, không thể loại bỏ sự cân nhắc, tính toán và những khái niệm cần thiết ra ngoài mọi sinh hoạt đời sống. Tuy nhiên, nếu chúng ta không có đủ tầm nhìn khách quan, trong sáng và trực tiếp để nhận ra những thực kiện của vấn đề, mà chỉ dựa trên những tư tưởng, khái niệm để suy luận thì liệu chúng ta có thể cân nhắc tính toán một cách chính xác, khả thi không? Khái niệm chỉ có giá trị khi nó minh họa cho thực kiện, hay phản ánh trung thực tính chất sự kiện. Nhưng khi khái niệm là ý tưởng chủ quan, thiếu xác thực thì sẽ trở thành chướng ngại cho việc hình thành những dự án khả thi. Đó là lý do tại sao nhiều kế hoạch có vẻ logic, trên thực tế, không thực hiện được.

Vì vậy, mọi cân nhắc tính toán cần phải  dựa  trên sự quan sát thận trọng và trực tiếp những sự kiện để thấy biết rõ ràng thực chất của chúng, nếu không thì mọi tính toan chỉ là ảo vọng, hoang tưởng. Tóm lại,  thấy biết trực tiếp và trong sáng là yếu tố cốt lõi của mọi dự án khả thi.

Hỏi:

- Tôi vẫn chưa hiểu. Giả dụ như khi công ty tôi phải ký hợp đồng với một công ty khác. Dĩ nhiên bên A và bên B phải chuẩn bị soạn sẵn những điều khoản quy định và điều kiện ràng buộc trong hợp đồng để sẵn sàng thương lượng một cách tự tin, không bị thiệt thòi. Vậy tôi có cần phải tiên liệu trước hay cứ để tâm trí trong lặng mà đi ký hợp đồng?

Đáp:

- Tất nhiên bạn phải chuẩn bị những điều khoản cho một hợp đồng, nhưng những điều khoản ấy phải phù hợp với những thực kiện của chủ đề. Ví dụ, một công ty xây dựng, khi xem xét mọi yếu tố của một hợp đồng, phải nắm vững thực chất nội dung của hợp đồng: Như năng lực, đồ án, bản vẽ kỷ thuật và kết cấu, khối lượng thi công, vật tư, đơn giá, luật xây dựng v.v... cùng với những thỏa thuận công bình, sòng phẳng có lợi ích cho cả đôi bên.

Ngày nay, bạn khỏi lo điều đó, bạn chỉ cần tải trên mạng xuống một hợp đồng bạn cần là có ngay mẫu tiêu chuẩn. Cứ điền vào đó và thay đổi đôi chút cho hợp với tình huống thực tế là xong. Là một chuyên gia hay doanh nhân thành thạo, dĩ nhiên bạn phải nắm vững mọi kỹ thuật cần thiết và luật lệ liên quan đến hợp đồng, bởi vì cái chính là thực lực, đạo đức, sự trầm tĩnh, sáng suốt của bạn chứ không phải là lo toan.

Trong một hợp đồng lương thiện thì mỗi bên không những quan tâm đến lợi ích của mình mà còn quan tâm đến lợi ích của đối tác. Nếu chúng ta chỉ lo tính vì tư lợi thì tính ích kỷ, tham lam sẽ làm cho chúng ta mệt mỏi, căng thẳng; như vậy, làm thế nào chúng ta còn đủ trầm tĩnh, sáng suốt, tự tin để thương thảo với đối tác một cách sòng phẳng được. Kết quả là một hợp đồng như vậy không thể thành tựu tốt đẹp cho cả đôi bên.   

Suy nghĩ, tính toán chỉ đúng và lương thiện khi dựa trên khả năng thấy biết chính xác, minh bạch, phát xuất từ quan sát trực tiếp, khách quan và trung thực của một tâm trí trong sáng trầm tĩnh.

Hỏi:

- Xin thầy cho một vài ví dụ cụ thể để chứng minh rằng chỉ cần sáng suốt vô tâm mà được việc hơn là lo tính trước?

Đáp:

- Trong môn cảm xạ học, người ta dùng một quả lắc nhạy cảm để thẩm tra một vài nghi vấn. Muốn có câu trả lời chính xác, người cầm lắc phải thật định tĩnh, sáng suốt và vô tâm, không suy tính, không phỏng đoán, vì sẽ làm cho quả lắc đưa ra câu trả lời sai lạc. Đây là một môn khoa học thật sự, có liên hệ đến sự thấy - biết vượt ngoài khả năng phán đoán của lý trí. 

Có những vấn đề tưởng chừng như bạn không sao giải quyết được, càng suy nghĩ càng rối thêm. Nhưng khi bạn buông nó ra, ngủ một giấc thật ngon, rồi bỗng nhiên bạn lại thấy ra một giải pháp cực kỳ hoàn hảo. Cũng có lúc bạn cố nhớ tên một ai đó mãi không ra, nhưng khi thôi không cố gắng nữa thì bạn chợt nhớ lại một cách dễ dàng.

Bạn thử xem xét trường hợp đơn giản sau đây: Bạn có một chùm những chìa khóa giống nhau của nhiều phòng. Thật khó khăn mỗi lần tìm một chìa nào đó nên bạn đã dán số cho mỗi chìa để dễ tìm hơn. Vậy mà có lúc, bạn ngạc nhiên khi vô tình lấy đúng chìa khóa bạn cần, từ trong ví, chẳng mất công tìm tòi gì cả.  Bởi vì, chính trong khoảnh khắc bạn thật sự bình thản, tự nhiên và vô tâm, tâm bạn trở nên chính xác và bén nhạy trong một khả năng cảm ứng thật kỳ diệu.

Hỏi:

- Định tuệ cần được rèn luyện tu tập mới hữu dụng, làm sao buông ra mà định tuệ có thể tự vận hành?

Đáp:

- Thực ra, vì bị trói buộc bởi vô minh ái dục, mà chúng ta đánh mất khả năng của định tuệ, vì vậy tâm chúng ta không còn bình lặng, trong sáng và hồn nhiên nữa. Vô minh biểu hiện qua si mê, tà kiến. Ái dục thể hiện qua tham lam, sân hận. Bao lâu còn bị ràng buộc vào những khuynh hướng tình cảm và lý trí này thì định tuệ vẫn không thể biểu hiện tính tịch lặng và soi sáng của mình. Vì vậy, buông những cản trở này chính là cách rèn luyện tốt nhất để phục hồi khả năng của định tuệ, trả định tuệ về với tình trạng chưa bị che lấp.




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024