Thiền sư Ajahn Chah
Lá
thư từ xứ Thái
Ngài sinh ngày 17 tháng 6 năm
1918 tại một ngôi làng nhỏ nằm gần thành phố
Ubon Rajathani thuộc Ðông Bắc Thái Lan. Học xong
tiểu học trường làng, Ngài đi tu sa-di ba năm
rồi trở về phụ giúp gia đình. Gia đình Ngài sống
bằng nghề nông.
Năm tròn hai mươi tuổi, ngày
26 tháng 04 năm 1939, Ngài quyết định xuất gia
trở lại và lần này tu luôn giới phẩm Tỳ kheo.
Xuất gia xong, Ngài được tham dự các khóa học
giáo lý và ngôn ngữ Pali. Năm năm sau, phụ thân
ngài qua đời và cũng vào lúc này Ngài nhận được
mãnh bằng tốt nghiệp xuất sắc môn Pali. Một phần
do tác động tâm lý từ cái chết của cha, Ngài bất
chợt nhìn thấy cái buồn thiu vô vị của cuộc sống
và thế rồi, từ bỏ mọi thứ đang có. Ngài quyết
định thực hiện một cuộc đi đường dài của một
người du sĩ.
Ðể tới được Trung bộ Thái
Lan, Ngài đã trải qua 400 km bằng đôi chân gió
bụi. Trong suốt thời gian ấy, không ít đêm Ngài
phải ngủ lại giữa rừng sâu và thức ăn đi đường
chỉ có được bằng cách khất thực tại những xóm
làng mình đi qua. Rồi như một cơ duyên hãn hữu,
ngài đã tình cờ ghé ngang một ngôi chùa và chính
tại đây được tham kiến thiền sư Ajahn Mun
Bhùridatta, một thiền sư thời danh và cũng vô
cùng lỗi lạc.
Ngài Ajahn Chah quyết định
dừng bước để cầu pháp. Ngài học cẩn thận pháp
môn thiền định với thầy nhưng tự đáy lòng chẳng
hiểu sao cứ thấy có gì đó bất ổn. Dường như hiểu
được gút mắt này trong lòng Ngài nên thiền sư
Ajahn Mun đã gợi ý một vấn đề hết sức quan
trọng: "Giáo lý của Ðức Phật tuy được trình bày
bao la nhưng để đi vào đáy sâu nội tâm của mỗi
người thì chỉ có một con đường duy nhất mà cũng
hết sức đơn giản đó là một khi có được khả năng
chánh niệm đối với những gì diễn ra trong lòng
mình thì tất cả sự thật tự lộ diện ...". Chính
câu nói khai thị này đã phơi mở cho Ngài Ajahn
Chah một lối về ngắn nhất với pháp môn Thiền
Quán.
Suốt bảy năm dài sống hạnh
đầu đà trong rừng sâu, ngài Ajahn Chah đã có
nhiều cơ hội học hiểu bản chất cuộc đời qua quá
nhiều thử thách chết người trong nếp sống thường
nhật. Những khu rừng Ngài đi qua đều nổi tiếng
là nguy hiểm với những mãnh thú và độc trùng. Có
đêm kia, giữa rừng già hoang vu, Ngài đã một
mình ngồi thiền dưới cơn bão lớn để có thể thấm
thía tận cùng niềm cô đơn vô biên của kiếp sống
không nhà.
Năm 1954, sau những tháng
ngày trôi dạt, Ngài đã được mời về thăm lại quê
hương, cũng vẫn ngôi làng nhỏ của ngày xưa.
Thiền sinh các nơi tìm về cầu pháp ngày càng
đông dần và một ngôi thiền viện được ra đời
trong một cánh rừng phụ cận, một nơi cũng nổi
tiếng ma thiêng nước độc, và đó chính là thiền
viện Wat Pah Pong hôm nay để từ cơ sở này, rất
nhiều chi nhánh tiếp nối nhau thành lập.
Năm 1967, một vị sư người Mỹ
đã tìm đến Wat Pah Pong. Vị này chỉ mới tu thôi
và ngay mùa an cư đầu tiên đã chọn một ngôi chùa
ở sát biên giới để tu thiền. Ðó chính là đại đức
Sumedho. Dù mọi công phu không phải là vô bổ
nhưng đại đức vẫn cảm thấy mình cần có một người
thầy hướng dẫn cho đời tu được trọn vẹn hơn. Vào
đúng thời điểm đó, thật tình cờ, một vị sư đệ tử
của Ngài Ajahn Chah đến viếng ngôi chùa này và
gặp gỡ Sumedho. Cũng may, vị sư người Thái đó
cũng biết nói chút ít Anh ngữ, rồi vị này đã
giới thiệu ít nhiều về thầy của mình với
Sumedho. Thế là đại đức Sumedho lập tức lên
đường tới tận Wat Pah Pong cùng vị sư người Thái
mới quen.
Ngài Ajahn Chah đã nhiệt tình
tiếp nhận sư Sumedho nhưng trước sau vẫn không
quan tâm gì tới đời sống vật chất của người học
trò da trắng này. Có nghĩa là sư Sumedho vẫn cứ
phải đi khất thực để sống với những thức ăn thật
khó quen miệng và dĩ nhiên cũng được hướng dẫn
phép thiền theo cách vẫn áp dụng cho các thiền
sinh bản xứ.
Phương pháp dạy thiền của
Ngài Ajahn Chah tuy có phần khắt khe nhưng có
một nội dung sâu sắc nhất định. Ngài luôn đặc
biệt nhấn mạnh mục đích tĩnh lặng để thấu thị
thực tại xuyên qua tất cả lao dịch chấp tác mỗi
ngày và tinh thần thứ hai cho mọi sinh hoạt của
tất cả thiền sinh luôn đặt nền tảng trên một từ
"Giới Luật".
Theo thời gian, cùng với
những cơ duyên, ngày càng có thêm nhiều những
nhà sư Tây phương tìm đến Wat Pah Pong. Lúc này
đại đức Sumedho đã được năm hạ tỳ kheo cùng với
một khả năng khá vững chải. Ngài Ajahn Chah
quyết định giao phó cho đại đức trách nhiệm
trông coi và hướng dẫn các nhà sư da trắng đó.
Mùa hè năm 1975, ngài Sumedho
cùng các vị sư Tây phương đã tạm thời rời Wat
Pah Pong để đến hành thiền trong một cánh rừng
cách đó không xa. Thật bất ngờ khi dân chúng địa
phương hết lòng hoan hỷ yêu cầu các vị tiếp tục
lưu trú dài hạn và chính ngài Ajahn Chanh cũng
đã cho phép các vị lựa chọn. Thế là thiền viện
Wat Pah Nanajat (đa chủng tộc) đã được ra đời và
Ngài Sumedho trở thành viện chủ ngôi tu viện đầu
tiên dành cho các nhà sư Tây Phương.
Năm 1977, được Giáo Hội Phật
Giáo Anh Quốc mời sang thăm viếng, ngài Ajahn
Chah đã dắt đại đức Sumedho và đại đức
Khemadhammo đi cùng. Thấy ở Anh Quốc có nhiều
điều kiện hoằng dương, Ngài đã để hai người học
trò ở lại chùa Hampstead ở Luân Ðôn rồi trở về
Thái Lan. Ðến năm 1979 Ngài lại trở qua Anh khi
hai vị đại đức học trò đã rời Luân Ðôn đi xây
dựng thiền viện Chithurst ở Sussex. Sau đó Ngài
còn sang tận Hoa Kỳ và Canada để thuyết giảng.
Chấm dứt chuyến đi, trở về
Thái Lan vào năm 1981, sức khỏe của Ngài lại bắt
đầu sa sút ngày một nhiều bởi chứng tiểu đường.
Trong tình trạng đáng ngại như vậy, Ngài vẫn cố
gắng bình tâm và luôn có ý lấy chính tấm thân
của mình làm bài học thiền định cho các đệ tử.
Cuối mùa an cư năm 1981, Ngài gần như không còn
nói chuyện được nữa, các buổi thuyết giảng thưa
dần và sau cùng Ngài coi như không thể cử động,
phải nằm một chỗ nhưng sức mạnh nội tâm thì vẫn
vô cùng mãnh liệt.
Ngài viên tịch vào tháng
Giêng, 1992.
Lá
Thư Từ Xứ Thái
Năm nay tôi nhập hạ ở chùa
Tum Saeng Pet để thay đổi không khí cho cái sức
khỏe đang xuống dốc. Bên cạnh tôi lúc này có mấy
vị sư đệ tử người Tây Phương. Sư Pabhàkaro, sư
Santo, sư Pamutto, sư Michael, sa di Guy cùng
một số chư Tăng, Phật tử thiền sinh người Thái.
Ai cũng tu thiền tiến bộ hết. Ðó là niềm vui lớn
cho tất cả chúng ta và bỗng nhiên bây giờ tôi
thấy khỏe lại ít nhiều, đủ để ngồi lại ghi âm lá
thư cho các vị bên đó.
Vì sức khỏe không cho phép
nên tôi không sang thăm Anh quốc được nhưng
những tin tức về Phật sự của các sư bên đó vẫn
làm tôi thấy vui hoài. Ðiều khiến tôi mừng nhất
là sư Sumedho bây giờ đã có thể làm Hòa thượng
cho người khác xuất gia. Phật giáo bên Anh như
vậy là đã có cơ may phát triển rồi đó. Tôi cũng
mừng khi được biết các vị đại đức và ni tu thân
quen hiện đang sống tại thiền viện Chithurst với
sư Sumedho. Tôi mong mỏi các vị luôn có nhiều
sức khỏe, sống hòa thuận, tương trợ trong đời tu
và hoạt động Phật sự.
Thông qua các đàn tín ở Anh
và Thái Lan, tôi được biết khá nhiều về tiến độ
xây dựng thiền viện Chithurst. Nghe đâu ở đó bây
giờ đã có đủ phòng ốc tiện nghi. Tôi cứ nhớ lại
một tuần lễ sống ở Chithurst mà ngán! Hôm nay
thì cả ngôi chánh điện lẫn giảng đường đều hoàn
tất. Nhưng cũng nhớ đấy, cứ lo xây cất mãi thì
cũng không ổn đâu, lối sinh hoạt đó có vẻ hơi
hình thức ... Tôi cũng hiểu là vị nào mang trọng
trách trụ trì hay viện trưởng cũng đều phải ít
nhiều bận rộn trong việc xây dựng cơ sở, kể cả
chùa Wat Pah Pong ngày xưa cũng đã phải bắt đầu
với những đa đoan đó mà. Nhưng các vị cũng đừng
quên rằng công việc nhiêu khê luôn quấy rầy đời
sống tu tập và hoằng dương của người xuất gia mà
điều quan trọng nhất là nếu cứ đầu tắt mặt tối
như vậy chúng ta làm sao nói chuyện với thiên hạ
được?!
Tuy vậy tôi tin tưởng ở sư
Sumedho rất nhiều, tin sư sẽ luôn biết tự dàn
xếp. Vấn đề thực ra thì cũng nhỏ thôi, chẳng có
gì đáng nói nhiều, nhưng nhớ chừng vẫn hay hơn.
Vì mọi vấn đề luôn là dễ hay khó ngay tự cách
nhìn của chúng ta.
Trách nhiệm trụ trì hay viện
chủ chẳng khác gì việc lắp đặt một thùng rác.
Bực mình vì mấy thứ rác rưới nên người ta mới
nghĩ ra cái thùng rác để hết phiền. Thế rồi trên
thực tế chính người lắp đặt thùng rác lại cũng
là kẻ giữ rác! Có cơ sở rồi cai quản nó thì
phiền lắm. Từ chùa Wat Pah Pong đến các ngôi
tịnh xá thời Ðức Phật cũng thế, đều là những chỗ
để chuốc phiền và trăm thứ rác rến đắng cay dĩ
nhiên cứ nhắm vào vị trụ trì, viện chủ mà trút
xuống!
Trong những hoàn cảnh đó,
chúng ta đòi hỏi phải có một cái nhìn thật xa,
thật sâu để có thể thu xếp, ổn định mọi sự. Và
có thể nói rằng đức tính quan trọng nhất cho đời
tu chúng ta chỉ nằm trong chữ Nhẫn. Mỗi một chữ
đó thôi nhưng sâu sắc và cần thiết vô cùng.
Ðúng là các công trình xây
dựng trú xứ ở Chithurst hôm nay đã hoàn tất
nhưng xem ra vẫn còn một chuyện vẫn chưa xong
xuôi đấy, thậm chí nó còn mãi mãi là một vấn đề
phải giải quyết dài hạn. Ở đây tôi muốn nói đến
việc duy trì những gì mình đã tạo dựng. Ðúng
thế, cất chùa thì dễ mà giữ chùa thì lại rất
khó. Ðiều này cũng giống như việc tế độ cho một
người xuất gia rồi tiếp tục nuôi dạy họ. Cả hai
việc khác nhau nhiều lắm. Nhưng suy cho cùng thì
chẳng sao cả, vấn đề tuy có đôi chút khó khăn
đấy, miễn sao ta biết thu xếp mọi sự cho thật
giản dị là được rồi. Từ quan niệm sinh hoạt này,
tôi rất mong các vị hãy vì tiền đồ Phật pháp ở
Chithurst mà cùng nhau dốc sức.
Tôi hy vọng những gì mình nói
ra hôm nay trong cuốn băng này sẽ mang lại cho
các vị bên đó một chút ấm lòng và khích lệ. Gặp
bất cứ người Thái nào có liên hệ bên Anh Quốc
tôi cũng đều khuyên họ đến viếng thăm thiền viện
Chithurst cả. Tôi tin họ sẽ lấy làm thú vị với
một chi nhánh thiền viện như vậy ở đó. Ðổi lại,
bây giờ cũng có rất nhiều khách ngoại quốc tìm
tới viếng chùa Nanajat và nhờ vậy, tôi cũng có
được ít nhiều tin tức về các vị. Tôi muốn nhắc
lại rằng điều làm tôi vui nhất chính là thấy
được mối quan hệ mật thiết giữa ba chùa: Wat Pah
Pong, Wat Nanajat và thiền viện Chithurst.
Ðó là tất cả những gì tôi
muốn nói. Hãy nhận lấy tất cả tấm lòng của tôi
dành cho các vị. Mong sao cho các vị luôn an
lành, sống hòa hợp và tương trợ. Nguyện cầu hồng
ân tam bảo luôn sống mãi trong tâm hồn các vị.
Chúc sức khỏe từng người.
Ajahn Chah
Ý
Nghĩa Thiền Ðịnh
(Gồm một thời pháp thoại vấn
đáp giữa thầy trò thiền sư Ajahn Chah tại Chùa
Gor Nork, Thái Lan, mùa an cư 1979, trong đó các
cử tọa hầu hết đều là người nói tiếng Anh)
-ooOoo-
HỎI: Có phải pháp môn thiền
định mà Ngài vẫn nhắc đến là nói về cách ngồi
thiền hay cách suy tư về một đề tài thiền định
chuyên biệt nào đó như quán về 32 thể trược
chẳng hạn?
ÐÁP: Thật ra những điều đó sẽ
không còn cần thiết nữa đối với nội tâm đã thực
sự tĩnh lặng. Một khi tâm tư ta đã được dàn xếp
một mức độ bình đạm nhất định nào đó thì thực
tại, tức đối tượng của trí tuệ Thiền Quán sẽ tự
hiển hiện một cách rõ ràng. Trong một sự tập
trung đúng mức của nội tâm, mọi khái niệm khu
biệt, đánh giá về cái tốt xấu, dở hay ... sẽ
biến mất. Các vị đừng ngồi đó mà suy nghĩ, tính
toán: "Cái này giống cái kia, cái kia giống cái
nọ". Cái đó chỉ là cái vỏ ngoài của thiền định.
Thiền định tuyệt đối không chỉ có nghĩa là suy
nghĩ, mà hơn vậy, đó chính là sự tĩnh lự, hay
khả năng thấu thị trong im lặng. Cứ tự nhiên mà
sống nhưng điềm tĩnh quan sát từng hiện hữu
thông qua những so sánh khách quan. Con đường
này tuy vẫn có vẻ chưa rốt ráo cho lắm nhưng
cũng ít nhiều cho ta một cái nhìn như thật.
HỎI: Rõ ràng là trong lúc
thiền định về danh sắc, chúng tôi đã Suy Nghĩ,
Tư Tưởng. Liệu những Suy Nghĩ, Tư Tưởng đó có
dẫn đến trí tuệ nội quán và đây có phải là pháp
môn Vipassanà không?
ÐÁP: Ðúng là trong Thiền Quán
trước sau chúng ta đều phải Suy Nghĩ, Tư Tưởng.
Nhưng với một trí tuệ chín chắn thì những Suy
Nghĩ, Tư Tưởng mang tính chất Ngã chấp sẽ bị
đình chỉ. Cho dù đôi lúc ta cũng phải bắt đầu
mọi sự bằng thái độ của một chủ thể nhưng chẳng
sao cả, mọi vọng niệm không cần thiết rồi sẽ qua
đi.
HỎI: Ngài thường nhấn mạnh
vai trò của Ðịnh (Samàdhi) trong tiến trình tu
tập Thiền Quán. Vậy thế nào là Ðịnh theo định
nghĩa của Ngài?
ÐÁP: Ðó là sự tĩnh lặng cần
thiết và kịp thời trong từng khoảnh khắc sinh
diệt của ý thức.
HỎI: Có phải Ngài muốn nói
đến sự hết mình với mỗi phút giây hiện tại,
không bận tâm gì đến quá khứ, tương lai?
ÐÁP: Nếu có nghĩ về quá khứ,
tương lai bằng một ý thức rõ ràng về bản chất
như thật của chúng ta thì vẫn là tốt, miễn sao
ta không bị chúng bắt giữ, đồng thời cũng hãy
xem chúng "chẳng là gì cả" để không chấp thủ
chúng. Thấy được Tư Tưởng là Tư Tưởng, đó chính
là trí tuệ Thiền Quán. Ðừng đặt hy vọng vào bất
cứ Tư Tưởng nào cũng như bất kỳ cái nào thuộc Tư
Tưởng. Chỉ nên ghi nhận rằng chúng đều là những
gì đang sanh ra và sẽ mất đi. Hãy nhìn ngắm mọi
thứ một cách đơn giản, chúng ra sao thì thấy như
vậy, không cố đi tìm một chủ thể nào trong đó
cả: Hạnh phúc là Hạnh phúc, Ðau khổ là Ðau khổ.
Thấy được như vậy ta sẽ chấm dứt mọi hoài nghi.
HỎI: Tôi vẫn chưa hiểu ý
Ngài. Xin nhắc lại Thiền có phải là Tư Tưởng
không ạ?
ÐÁP: Tư Tưởng đối với hành
giả chỉ là một thứ công cụ thôi, còn cái Hiểu
Biết được hành trang của Tư Tưởng thì tuyệt
nhiên không phải là Tư Tưởng (theo nghĩa thông
thường). Cái Hiểu Biết đó giúp ta không bị Tư
Tưởng đánh lừa. Chúng ta hãy hiểu rằng tất cả Tư
Tưởng chỉ đơn giản là những vận động của ý thức,
còn cái Hiểu Biết kia chẳng dính dáng gì tới tư
tưởng cả. Các vị nghĩ gì về cái gọi là Ý Thức,
Tư Tưởng hay những vận động của chúng? Chúng ta
đang nói chuyện về ý thức, những hoạt động của ý
thức và tôi muốn nhấn mạnh rằng Tư Tưởng chỉ là
những vận động mang tính tập quán của ý thức.
Không có một ý thức Chân Như nào cả, tất cả chỉ
mang ý nghĩa của cái Ðang Là, không đụng chạm gì
với vấn đề thời gian.
Chỉ tìm hiểu vấn đề này bằng
một cuộc đối thoại suông thế này, ta không đi
đến đâu cả. Trước hết, chúng ta phải thấu đáo
cho bằng được ba pháp ấn căn bản của pháp môn
Thiền Quán là Vô Thường, Khổ Não và Vô Ngã. Ta
phải dùng Tư Tưởng để chú ý đến bản chất thật sự
của những gì vẫn luôn xảy ra. Thành tựu tâm linh
có được từ công phu này chính là trí tuệ và nếu
đó là khả năng trí tuệ như thật thì có nghĩa là
ta đã liễu ngộ được Níp Bàn, thấy được Tánh
Không (theo đúng tinh thần truyền thống). Và sự
liễu ngộ này cũng vẫn là một hình thức Tư Tưởng,
có điều lúc này nó chẳng còn gì để ta phải bận
tâm nữa.
HỎI: Làm thế nào để chúng ta
có thể đạt đến trình độ như Ngài vừa nói, mà
theo chúng tôi có thể gọi đó là cái Chơn Tâm?
ÐÁP: Các vị luôn sống và làm
việc bằng chính Tư Tưởng mà mình có thể, đúng
chưa? Hãy thấy rằng tất cả những gì xảy ra đều
luôn bất toàn, và rỗng tuếch. Hãy chiêm ngắm
tinh tường để thấy rằng thật ra chẳng có một chỗ
nào là chỗ hiện hữu cho bất cứ cái gì. Thấy được
chúng là vật vô xứ nên ta vô chấp. Ðó là ý nghĩa
trọn vẹn của tánh Không. Khi phát hiện ra bất cứ
cái gì xảy đến trong tâm thức, dù nó nhắm tới
mục đích gì, ta cũng đừng bận tâm tới bằng một
sự hợp tác nào và cũng đừng tự đặt ra một nghi
vấn nào về chúng cả.
Chúng ta hãy quay lại với hai
tiếng Chơn Tâm gì đó mà khi nãy các vị vừa nhắc
đến, hi vọng thông qua chút quan hệ ngữ nghĩa
này ta sẽ hiểu được vấn đề.
Ðúng là chúng ta đã nghĩ ra
các tên gọi mang tính thuật ngữ để tiện dụng cho
việc học tập và nghiên cứu, nhưng trước sau gì
thì vạn vật cũng cứ là vạn vật dù ta có gọi tên
chúng ra sao đi nữa. Chúng ta lúc này đang cùng
ngồi trên một nhà lát đá. Nó bất động, vô hồn và
bên trên chúng ta bây giờ còn có một lớp trần,
cũng vẫn là một hiện hữu chẳng dính dáng gì tới
chúng ta. Nhưng nếu cần nghĩ về chúng ta thì lại
rắc rối đấy. Cả nền nhà lẫn trần nhà đều xuất
hiện trong đầu óc ta với cùng lúc rất nhiều vấn
đề hình thức, cảm giác, ký ức, suy nghĩ. Mà thật
ra thì chúng đâu có tồn tại theo đúng như những
gì ta tư tưởng về chúng, áp đặt lên chúng! Tất
cả chỉ là một chuỗi ý thức mang tính tập quán.
Còn cái nền nhà và trần nhà này thì vẫn từng
phút chuyển hóa sinh diệt theo nhân duyên, bởi
tự chúng sẽ chẳng là gì cả.
Trong kinh điển Pàli có kể
lại một câu chuyện nhỏ về trưởng lão Xá-Lợi-Phất
khi Ngài muốn kiểm tra khả năng tu học của một
người đệ tử trước khi cho phép vị này sống hạnh
đầu đà. Trưởng lão đề nghị vị này hãy cho mình
biết sẽ trả lời ra sao khi có người đặt câu hỏi
rằng điều gì sẽ xảy ra đến Ðức Phật khi Ngài đã
viên tịch: "các uẩn sau khi sinh khởi đều sẽ
biến diệt." Ðược biết rằng Ngài Xá-Lợi-Phất rất
hoan hỷ với câu trả lời và đồng ý cho người đệ
tử được toại ý đi theo con đường mình đã chọn.
Thiền Quán không chỉ là những
cuộc đàm luận bằng miệng về chuyện sinh diệt của
vạn hữu. ở đây luôn đòi hỏi ở chúng ta một trí
tuệ tự chứng và thực nghiệm. Khi đang ngồi, hãy
đơn giản nhận biết cái gì đang xảy ra với mình
lúc đó. Chỉ quán sát chứ không đuổi bắt bất cứ
cái gì. Thiền Quán không không hề có nghĩa là
trạng thái ý thức bị câu thúc. Sự vận động của
trí tuệ Thiền Quán về thực tại không giống như
những vọng niệm phiêu bồng về cuộc đời, về những
vấn đề thế tục. Cho nên chỉ trừ trường hợp hiểu
được yếu tính của Thiền Quán, càng Tư Tưởng mông
lung thì ta càng dễ rơi vào ngộ nhận.
Sở dĩ ở đây việc phát triển
chánh niệm được nhấn mạnh nhiều lần là bởi vì
tất cả chúng ta đang rất cần đến một cái nhìn
thật rõ ràng về những gì đang xảy ra mà tôi vẫn
gọi là cái thực tại. Chúng ta phải hiểu được qui
trình vận động của chính nội tâm mình. Một khi
chánh niệm và trí tuệ được song hành thì mọi sự
chắc chắn sẽ được ổn định. Ta có thể nghĩ rằng
đối với một người hiểu được lẽ đạo sẽ không bao
giờ có những hành động nông nổi, dung tục nhưng
nếu chỉ bảo rằng phong cách đó có được từ việc
hiểu thấu lẽ Ðạo thì cũng chưa đủ. Vậy thì đằng
sau động lực đó còn có cái gì khác nữa? Ðó chính
là chánh niệm!
HỎI: Thế nào nghĩa là Ngài
đang muốn nói tới một cái tâm thức nguồn cội
trong chính tâm thức này phải không ạ?
ÐÁP: Tôi vẫn chưa hiểu ý ông
...
HỎI: Tôi thấy hình như Ngài
đang đề cập tới cái gì đó nằm ngoài Ngũ Uẩn, cái
đó có thật sao và ngài gọi nó là cái gì?
ÐÁP: Không có CÁI GÌ cả thì
làm sao chúng ta có thể gọi tên cho cái không có
ấy được? Mọi thứ sinh diệt để mà sinh diệt. Ngay
cả sự Hiểu Biết về điều này cũng không thuộc về
bất cứ AI và nó cũng bị biến diệt. Ý thức (cứ
tạm gọi thế) không hề là một cá thể, một con
người, một cái Tôi, chẳng là bỉ cũng không là
thử. Ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ dừng lại ở đó,
không có gì đáng để ta ước muốn. Tất cả chỉ là
một sự mất mát, băng hoại. Thấy được điều này,
tất cả sẽ được chấm dứt, có nghĩa là không còn
gì để nói nữa.
HỎI: Vậy thì tôi có thể gọi
cái Ngài vừa nói bằng cái tên là "Ý Thức Nguồn
Cội" chứ ạ?
ÐÁP: Nếu ông muốn thì cứ gọi
thế cũng được. Ông có thể tùy ý, trọn quyền định
danh nó miễn sao ông không quên nguyên lý Nhân
Quả vẫn luôn tồn tại ở mỗi hiện hữu. Hãy nhớ
rằng điều này rất quan trọng đấy. Không ứng dụng
nguyên lý Nhân Quả tương quan thì ta không thể
nào có được những ngôn từ hay khái niệm thích
đáng để soi rọi chân lý đâu nhé. Tôi nhắc lại,
đây là điều quan trọng phải hiểu.
HỎI: Xin hỏi Ngài có thể nói
cụ thể ở cấp độ nội tâm thế nào và một chánh
niệm ra sao mới có thể đạt tới những điều Ngài
vừa nêu ra không ạ?
ÐÁP: Ông khỏi bận tâm đến
điều đó. Khi chưa có được một khả năng nội tĩnh
đúng mức thì coi như ông vẫn chưa thể đối điện
với những câu hỏi này. Ông cần thiệt phải có một
trình độ nội tĩnh thật sự vững vàng để có thể
nhìn thấy những gì đang xảy ra với mình một cách
rõ ràng và kịp thời.
Càng đưa ra nhiều câu hỏi chỉ
chứng tỏ rằng ông vẫn đang bị khốn khổ bởi các
nghi hoặc. Tôi nhắc lại, ông đang rất cần tới
một sự nội tĩnh để không tiếp tục bị những thắc
mắc đó vây hãm nữa. Chỉ cần thực hiện trọn vẹn
công phu Thiền Quán, ông sẽ tự thấu suốt hết
những vấn đề này thôi. Trong khi đó, càng cưu
mang chúng, ông chỉ càng thêm mù mịt. Cuộc đối
thoại nào cũng là tốt cả nếu nó giúp được ít
nhiều sức mạnh cho công phu tu tập của ông.
Nhưng cũng phải nhớ rằng đối thoại bằng ngôn từ
không thể đưa ông tới trí tuệ giác ngộ như thật
đâu đấy. Chánh pháp không thể được liễu ngộ qua
trung gian nào hết, ông phải tự mình nổ lực mới
có thể liễu ngộ. Ðó cũng chính là nguyên tắc tự
chứng (paccattam) của Phật Giáo.
Bỡi nếu ông chỉ sở hữu được
những kiến thức mà chúng tôi trao truyền lại thì
phải nói rằng trách nhiệm của ông vẫn hãy còn
nhiều lắm, vì rõ ràng ông vẫn chưa tự mình thực
hiện điều gì cả. Mà nếu còn có việc phải làm thì
coi như ông chưa đi tới đâu hết.
Hãy sống thật đơn giản bằng cách đặt xuống mọi
sự và hiểu rõ những gì mình đang làm. Ông cũng
chẳng cần phải cân đong đo đếm mức độ tu tập của
mình rồi bận tâm vớ vẩn. Mọi sự luôn tự có một
vị trí và giá trị cho riêng mình. Bất cứ cái gì
xảy đến trong cuộc tu, cứ để mặc chúng qua đi.
Ta chỉ việc hiểu rằng cái gì cũng là bất toàn và
vô thường. Hãy nhớ thật kỹ, cái gì cũng vô
thường. Hãy sống trọn vẹn với tinh thần đó. Ðây
chính là con đường dẫn tới cái mà ông gọi là Ý
Thức Nguồn Cội đấy!
-ooOoo-
|
Ðại
đức Sumedho
Con
Ðường Như Thật
Tiểu Sử Tác Giả:
Ngài Sumedho tên thật là
Robert Jackman sinh năm 1934 tại Seattle,
Washington. Sau khi tốt nghiệp Ðại học, Ngài đi
lính, làm một sĩ quan quân y trong Hải quân Mỹ
và đã từng có mặt trong cuộc chiến tranh Triều
Tiên. Rời quân ngũ, Ngài trở lại học đường và
lấy thêm bằng cử nhân văn chương tại Ðại học
Berkeley (California). Năm 1963, sau một thời
gian làm việc trong Hội Hồng Thập Tự, Ngài đã bỏ
sang Viễn Ðông và đứng lớp dạy Anh văn suốt hai
năm trời tại Borneo như một công tác từ thiện.
Lòng ái mộ Phật Giáo đã đưa
Ngài sang viếng Thái Lan năm 1966. Chính tại đây
Ngài đã tu sa-di ở chùa Nong Khai rồi một năm
sau đó (1976) lại thọ giới Tỳ kheo với Hòa
thượng Chao Khun Rajapreejayamuni. Và năm 1968,
gặp được thiền sư Ajahn Chah, người mà sau này
Ngài sẽ theo học thiền mười năm. Vào năm 1974,
sau một chuyến hành hương Ấn Ðộ với tư cách một
vị trì hạnh Ðầu Ðà, Ngài trở về Thái Lan và được
giúp đỡ xây dựng thiền viện Nanajat rồi trở
thành viện chủ ở đó, dù vẫn tiếp tục học hỏi với
Ngài Ajahn Chah.
Năm 1977 nhận được lời mời
của giáo hội Phật giáo Anh Quốc, thiền sư Ajahn
Chah đã dẫn theo Ngài Sumedho rồi để Ngài lại
chùa Hampstead ở Luân Ðôn để coi sóc một số tăng
chúng tại đây. Năm 1979 chư tăng Anh quốc tìm
thêm được một cơ sở hoằng pháp tại Sussex và thế
là tu viện Chithurst ra đời. Ðến năm 1984, vẫn
dưới sự điều hành của Ngài Sumedho cũng với một
khí thế sôi động, trung tâm Phật Giáo Amaravati
lại được thành lập, nằm ngay sát Luân Ðôn. Sau
đó từ miền Bắc đến Tây Nam Anh quốc rồi cả Thụy
Sĩ, Tân Tây Lan, Úc châu đều lần lượt có chi
nhánh lan rộng của hệ thống hoằng pháp do giáo
hội Phật Giáo Anh quốc tổ chức.
Bài giảng sau đây là một
trong hai bài giảng đầu tiên của Ngài Sumedho
tại trung tâm Amaravati nói trên vào mùa đông
năm 1988.
Con
Ðường Như Thật
Hôm nay là ngày trăng tròn
tháng giêng mà cũng có nghĩa là chúng ta đang
bắt đầu bước vào thời gian cấm túc tu tập mùa
đông. Có cả một đêm dài để thiền định thế này
quả là một cơ hội tuyệt vời và càng may mắn hơn
nữa là kể từ bây giờ chúng ta còn có đến hai
tháng trời để sống hết mình theo Phật Pháp.
Giáo lý của Ðức Phật dạy ta
hãy biết nhắm tới sự hiểu biết về tiến trình
sinh hóa của vạn pháp một cách như thật. Nói
cách khác, Ðức Phật chỉ đề nghị chúng ta hai khả
năng thôi: Biết nhìn ngắm và tỉnh thức. Hai khả
năng này thật ra chính là nội dung của con đường
Bát Chánh Ðạo. Thực hiện đạo lộ này là một công
phu phát triển trí tuệ giải thoát. Tiếng Pàli
gọi là Bhàvanà, ta có thể tạm dịch là "Tu tiến".
Cũng là nhìn ngắm vạn vật
nhưng nhìn chúng theo đúng bản chất tự nhiên của
chúng thì ta sẽ có được cái Thấy tốt hơn so với
cái nhìn xuyên qua một lăng kính ngã chấp. Cái
trợ lực lớn nhất cho trí tuệ của tất cả chúng ta
chính là niềm tin mù quáng vào cái Tôi, từ niềm
tin này ta bắt đầu nghĩ tới việc ôm ấp nó. Cái
Tôi đối với chúng ta lúc này đã trở nên hết sức
cần thiết chẳng khác gì nước đối với cá. Nước
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của
các loài cá trong khi chính chúng cũng không
nhận ra điều này. Chúng ta đâu có khác gì lũ cá
đó. Chúng ta đã nhắm mắt bơi lội trong cái thế
giới cảm quan dưới sự chi phối của Ngã chấp ngay
từ những ngày đầu đời. Nếu không có một chút
thời gian nào để khám phá bản chất của sự hiện
hữu thì có lẽ mãi cho tới lúc qua đời, chúng ta
cũng không biết được gì hơn, ngoài một nếp sống
bản năng!
Có điều là tất cả chúng ta ở
đây đều không phải là những con cá. Chúng ta là
con người. Chúng ta có thể xem xét lại vùng nước
mà mình vẫn bơi lội trong đó. Chúng ta có thể
quan sát thế giới cảm quan của mình một cách như
thật. Ðừng cố gắng chối bỏ hay củng cố nó, mà
đổi lại, phải luôn tỉnh thức trước nó. Nói vậy
có nghĩa là chúng ta không tiếp tục tự mê hoặc
chính mình bằng bất cứ sự cố nào, bất luận là
những gì đáng sợ, đáng yêu, nói chung là tất cả
cái gì ta tự tạo ra trong tâm thức chính mình.
Ðiều tôi muốn nói ở đây là
chúng ta hãy cùng tham khảo một định đề hay cũng
có thể gọi là một Công Án: Nó là Nó. Nếu các bạn
đi hỏi một người đang bơi dưới nước rằng nước
giống cái gì, thì tôi nghĩ rằng tốt nhất người
đó chỉ nên đơn giản nhìn xuống mặt nước rồi trả
lời rằng Nó là như vậy đấy. Nếu được hỏi thêm
nữa về nhiệt độ của nước, cảm giác ngâm mình
trong nước ... thì ai cũng có thể trả lời nhưng
để tìm một cái gì đó tương đương để diễn tả thì
gay đấy. Bởi nước chỉ là nước, là như vậy thôi.
Thế giới của chúng ta cũng
thế. Nó là Nó, và chúng ta hãy nhận biết nó. Nó
ra sao thì ra, buồn hay vui cũng mặc, kể cả
trường hợp nó trở nên vô vị, tẻ nhạt. Nhưng
trước sau gì Nó vẫn là Nó. Mọi thứ luôn đến rồi
đi vô chừng vô đổi, không hề có một cái gì khả
dĩ toàn bích và chắc chắn để ta có thể bám víu,
lệ thuộc cả. Toàn bộ đời sống cảm quan của chúng
ta chỉ là những năng lượng luôn chuyển đổi và xê
dịch. Tất cả trôi chảy không ngừng, kể cả tâm
thức của chúng ta cũng thế.
Bây giờ thì chúng ta đừng bận
lòng quá nhiều về đời sống nữa. Chúng ta chẳng
nên bàn chi tới cái Ðẹp, Xấu, dễ yêu hay đáng
ghét của nó. Chỉ nên nhìn ngắm thôi. Ðúng, chúng
ta chỉ việc chú ý quan sát đời sống, quan sát
vùng nước mà mình đang bơi lội. Ðời sống cảm
quan của chúng ta thực ra chỉ là cái thế giới
của những cảm giác chúng ta sinh ra trong đó và
cảm nhận. Ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ, chúng ta
đã là một sinh thể độc lập để một mình cảm nhận
trọn vẹn những nóng, lạnh, đói, khát, buồn, vui
... Rồi khi lớn lên, thế giới cảm xúc của chúng
ta càng rắc rối hơn nữa. Ngũ quan chưa đủ, chúng
ta còn sống bằng cả những ý thức để suy nghĩ,
ghi nhớ, quan niệm ... Tất cả đều là cảm giác.
Chúng có thể là những niềm vui, những kinh ngạc
mà cũng có thể là những áp lực, giằng xé. Tất cả
những xúc tác đó của đời sống cảm quan chỉ đơn
giản là vậy. Chúng là chúng. Ðau khổ là đau khổ
và hạnh phúc là hạnh phúc. Cả xả thọ cũng vậy.
Ðể có thể soi rọi đúng đắn
những thứ này, ta chỉ có mỗi con đường duy nhất
là tỉnh thức để tập trung chú ý. Có thể có ai đó
trong pháp hội này muốn đề nghị tôi hãy chỉ rõ
cho họ cách thức cảm nhận đời sống. Tôi xin nhấn
mạnh rằng điều cần thiết không phải là chúng ta
phải NÓI về đời sống, mà thay vào đó, chúng ta
chỉ nên SỐNG phơi mở và đón nhận nó đúng như nó
mà thôi. Chúng ta không cần thiết phải nói cho
ai đó nghe về chân lý trong khi họ có thể tự
mình khám phá ra nó. Hai tháng cấm túc này là
một cơ hội tốt để chúng ta tự thực hiện những
cuộc khám phá và cho dầu không thể thành tựu
được trọn vẹn những gì tôi vừa nói, thì đối với
một số người sau một thời gian công phu như vậy,
tôi tin rằng việc phát triển ít nhiều trí tuệ
chắc chắn là điều có thể thực hiện.
Ở đây tôi lại muốn định nghĩa
về tiếng Trí Tuệ mà mình vừa nhắc tới. Từ sanh
đến tử là một hành trình như thật. Trên hành
trình đó, cái thường trực nhất vẫn là những đau
đớn, bất toại, phiền muộn, chán nản. Nếu chúng
ta không nhận diện chính xác Chúng là Chúng, là
những pháp giới, pháp tánh thì coi như chúng ta
đã tự đặt vấn đề với chúng, quan trọng hóa đối
với chúng. Khoảng cách giữa Sinh và Tử lúc này
đã được thiết lập và thành ra cái gì đó mang
tính ngã thể chứa đầy những thành kiến như sợ
hãi, ham muốn.
Chúng ta thường đau khổ vì
mặc cảm cô đơn nên dù sống giữa một cộng đồng
tập thể cũng vậy. Và như thế thì cuộc sống của
mỗi người là một cố gắng để mình khỏi phải cô
đơn nữa. Ta muốn cùng người khác chuyện trò,
sinh hoạt cho bớt đi cảm giác lẻ loi. Nhưng phải
nhận rằng mục đích đó của chúng ta xem ra không
thể nào đạt tới. Chúng ta mãi cô đơn, thực sự cô
đơn ngay trong chính hình hài này của mình.
Chúng ta có thể lập nhóm hoặc cùng tham dự sinh
hoạt với người khác nhưng chỉ có chừng đó thôi,
đến mức độ đó thôi. Bước vào thế giới cảm nghiệm
thực sự về đời sống, ta sẽ thấy rằng mình vẫn
rất cô đơn, niềm cô đơn không cùng và toàn diện.
Việc tìm kiếm một người giúp mình thoát khỏi
niềm cô đơn quả là một vọng tưởng.
Khi đứng cạnh một sinh thể
vật lý nào đó, ta hãy chú ý ghi nhận tại sao
mình vẫn mãi là một cái gì cách biệt với chung
quanh. Có phải ta đã chưa có một cộng hưởng cụ
thể nào với nhau? Phải nói rằng càng nghĩ nhiều
về tấm thân này, ta sẽ càng cảm thấy cô đơn hơn,
dễ bị xúc phạm hơn. Rồi từ đó ta lại cố tách
mình để cô đơn hơn và tự tạo một thế giới riêng
tư để sống. Kết cuộc, chúng ta chỉ được toàn
những thứ buồn cười và chua chát: Ðó là những
tình bạn qua đường đầy hình thức, rồi là những
kẻ thù và tất cả những thứ đó sau một quá trình
đến, đi, bắt đầu, kết thúc cũng chỉ còn lại một
con số không. Mọi cái đều sinh ra và mất đi ngay
trong chính tâm hồn chúng ta. Trách nhiệm của
chúng ta là nhận ra tính kế thừa nhân quả của
Sinh và Tử, bắt đầu và kết thúc ...
Trong mùa cấm túc này, chúng
ta sẽ cùng giải quyết một công án thôi, đó là
những gì đang sinh ra, đang xuất hiện. Và ngay
bây giờ, chúng ta sẽ bắt đầu tham án với những
ghi nhận sau đây: Ðây là bản thân của tự Sanh,
đây là hình hài vật lý, Nó chính là ý thức, là
cảm giác, là tri thức, là hồi ức, là những vận
động ... Tất cả đều là những công án thiền định
vì chúng đều là những đối tượng tri nhận của ý
thức, là những pháp giới, pháp tánh. Nếu chúng
ta còn cố xem xác thân này là một đối tượng để
quan niệm về nó bằng những định kiến Ngã chấp
"Tôi, của Tôi" thì chắc chắn chúng ta sẽ cảm
thấy cô đơn và thất vọng, bởi cái gì cũng đang
trên đường đi đến chia cắt và phân hủy nên một
sự bám víu vào phù du nào cũng chỉ đem lại cho
ta những sợ hãi và mù quáng. Từ đó chúng ta luôn
dễ dàng cảm thấy bất an kể cả những lúc thật ra
chẳng có gì đáng ngại. Như vậy, cho tới khi nào
Vô Minh còn che án bản chất các pháp thì cho đến
lúc ấy tâm hồn ta cũng sẽ tiếp tục bị đè nặng
bởi những âu lo.
Nhưng ở đây ta phải hiểu thêm
rằng tất cả những cực lòng đó đều là những ảo
tưởng do chính chúng ta tự tạo ra thôi. Âu lo
chỉ đơn giản là một tâm trạng bị chất nặng, thái
quá. Tất cả những thứ được gọi là tình yêu, hạnh
phúc trên đời này luôn phản bội lại chúng ta khi
ta cố tình đầu tư chúng. Tìm kiếm chúng chỉ có
nghĩa là đi tìm những thứ đổ nát hoang tàn thôi.
Ðó là lý do tại sao Pháp môn Thiền Quán dạy ta
phải biết chối từ tất cả cảm giác hưởng thụ,
thưởng thức. Khước từ vì hiểu được chúng thật ra
là những gì, ta không tiếp tục tìm đến chúng
nữa. Chúng chỉ là Chúng. Chúng xuất hiện rồi tan
biến đi và không hề là một bản ngã nào hết. Ðó
là tinh thần của pháp môn Thiền Quán.
Còn đứng trên lập trường văn
hóa Tây phương của chúng ta thì vấn đề sẽ ra
sao? Môi trường xã hội gần như đã buộc ta phải
luôn luôn quan niệm về cái Tôi, cái của Tôi trên
mọi thứ, từ tâm sinh lý bản thân đến quan hệ gia
đình và vị trí xã hội. Chúng ta đừng quán tưởng
về Vô Ngã bằng những câu nói công án hay những
lời kinh nghiệm về tánh Không mà thay vào đó, ta
nên trung thực khám phá xem tại mình bị cuốn hút
mãnh liệt vào niềm hi vọng về một cái Tôi đến
thế. Và đời sống này lạ lắm, như tôi đã nói, ta
càng mơn trớn nó, nó sẽ càng có vẻ đối lập, kình
chống chúng ta. Lúc này nó cứ giống một mảnh sứ
vỡ hay một viên gạch cứng càng nắm chặt nó, bàn
tay ta chỉ đau đớn thêm thôi. Tất cả những phức
loạn, giằng xé đều đến với ta bằng con đường của
quan niệm về cái Tôi. Và cái Tôi hư tưởng đó gần
như thường xuyên mang lại cho Ta những thất
vọng, sợ hãi. Và đời sống đối với chúng ta bây
giờ còn tồi tệ hơn cả chính bản chất thực sự của
nó nữa!
Trong khi đó, chỉ bằng một
công phu quan sát khách quan về tất cả những gì
Ðang ... là, Ðang có mặt, thì mọi sự sẽ ổn cả.
Những cái thú vị, tươi đẹp, khoái cảm đều chỉ là
cái gì chúng Ðang là. Những đau đớn, bất toại,
bệnh hoạn cũng chỉ là những thứ Ðang xảy ra.
Chúng ta có thể thường trực nhìn thẳng vào hành
trình luôn được tiếp diễn và đổi thay của đời
sống. Hãy nhớ rằng tâm thức của một người liễu
đạo luôn nhạy bén và chính xác, còn đối với kẻ
hãy còn quá nhiều vô minh thì tâm hồn luôn bị
động và tù hãm.
Chúng ta luôn tự làm khổ mình
bằng những chấp thủ. Thái độ quan trọng hóa bản
thân, tức nghĩ về mình nhiều quá chỉ khiến đời
sống mỗi người thêm khó khăn. Kể cả một ý thức
về dân tộc, tín ngưỡng cũng thế, cái gì ta ôm ấp
cũng đều đem lại cho ta những cực lòng, thất
vọng. Tất cả định kiến hay quan niệm, lập trường
dù có như thế nào cũng chỉ là những sản phẩm tật
nguyền của ý thức. Chúng ta có thể là nhân tố
sinh tồn cho một tổ chức cộng đồng nhưng chỉ có
chừng ấy ý nghĩa thôi, ngoài ra chúng chẳng là
cái gì cả. Kinh điển gọi đó là cái Chế định, Tục
đế, Giả lập (Sammuti dhamma). Cái tên gọi là
Sumedho chỉ là một sản phẩm, một sáng tác có giá
trị nhất thời trong một thời gian nhất định nào
đó. Màu áo tu sĩ hay hình dạng một con người,
tất cả cũng đều là những thứ giả lập. Chúng
trước sau chỉ là Chúng. Chấp thủ những thứ đó,
tâm hồn chúng ta càng bị giới hạn và tù đày. Nó
chỉ là một mảnh sứ vỡ, trong khi chúng ta thì cứ
mù lòa trong những ảo tưởng.
Muốn vượt thoát ảo tưởng, ta
đâu cần vất bỏ chúng một cách trẻ con, theo cách
hiểu trẻ con. Ðể thực hiện công phu đó, tôi
không cần thiết phải tự sát hay hoàn tục bởi
thật ra tất cả ảo tưởng đều không có gì để nói
cả. Chúng sẽ chẳng quấy rầy ta nếu ta hiểu được
chúng là gì. Ảo tưởng là ảo tưởng, thế thôi, và
chúng đi ra từ khái niệm không gian và thời
gian, chỉ có vậy.
Cứu cánh Níp Bàn, tức cái tự
do hay giải thoát thật sự chỉ có thể đạt đến
bằng một sự nhận thức toàn triệt về nội dung rốt
ráo của các pháp. Từ chuyên môn trong Phật học
gọi là Paramatthasacca tức bản chất rốt ráo của
vạn sự, vạn vật (Chơn đế). Giải thoát ở đây có
nghĩa là chúng ta không còn ham muốn và sợ hãi
nữa, một sự giải thoát vượt ngoài mọi ảo tưởng,
một sự giải thoát mang ý nghĩa bất tử vĩnh viễn.
Nhưng để có được sự giải thoát này, trí tuệ này,
ta phải thấy được bản chất như thật của lòng ham
muốn để xem nó nhắm tới cái gì. Ta đồng thời
phải hiểu ý nghĩa của sự đau khổ, hiểu được hành
trình nào đã dẫn tới sự ngộ nhận về một cái Tôi.
Chúng ta phải tự giải đáp tất cả những vấn đề
này, không thông qua trung gian nào hết để không
mắc phải ngộ nhận. Hãy nhớ, ngay chính ý muốn đi
tìm quan niệm Vô Ngã cũng có thể là một Ngã chấp
trá hình. Vấn đề ở đây không phải là xác định
hay phủ nhận mà là một sự nhận chân, một sự nhìn
thấy đúng đắn. Ta phải thực hiện công phu này
bằng tất cả chánh niệm!
Với Chánh Niệm, chúng ta có
thể mở ra toàn bộ những khuất lấp của thực tại.
Chúng ta sẽ dành trọn hai tháng cấm túc này để
phơi mở mọi thứ bằng tất cả khả năng chánh niệm:
Khỏe, mệt, toại nguyện, thất vọng, hạnh phúc và
đau khổ, thậm chí giác ngộ và thua cuộc. Chúng
ta đừng mất thời giờ cho những suy nghĩ vớ vẩn,
chẳng hạn ao ước một điều gì đó sẽ xảy đến cho
mình, kể cả một sự hy vọng nông nổi vào những
thành quả tu tập mà mình mong mỏi đạt được trong
mùa cấm túc này. Tự bản thân những tư tưởng đó
đã là một khổ lụy. Và thay vào đó, ta chỉ việc
tập trung tất cả khả năng dù có khó khăn đến mấy
đi nữa. Hãy thực hiện điều này một cách đầy ý
thức và như vậy, bất cứ chuyện gì xảy ra trong
hai tháng sắp tới cũng sẽ là một phần thành quả
cho công phu của chúng ta. Hãy nhớ, ngay từ bây
giờ, công án thiền định của chúng ta chỉ là sự
Hiện Hữu Như Thật của mọi thực tại, bất kể nó là
cái gì. Nói chung, công án của chúng ta là mọi
sự, mọi vật.
Ði đúng con đường đó, đến cả
những thất vọng và đau khổ cũng có thể đem lại
cho ta sự tĩnh lặng và an bình của Thiền định.
Hồi còn ở Thái Lan, tôi cũng đã có dịp đi qua
bài học này với một loạt những trở lực hoàn toàn
bất lợi cho mình lúc đó: Những cảm giác cô đơn,
lẻ loi, bồn chồn, nghi hoặc, âu lo, thất vọng.
Chạy trốn chúng, chúng càng theo đuổi. Ðón nhận
chúng, chúng biến mất. Và điều dĩ nhiên là một
khi ta đã dám chấp nhận tận cùng mọi thứ thì còn
có gì để ta phải chối bỏ nữa!
Phải nói rằng con đường mà
Pháp môn Thiền quán đề nghị chúng ta dấn bước
quả là hết sức tế nhị và sâu thẳm. Nó không phải
sâu thẳm và tế nhị ở hình ảnh cảm nghiệm bởi đề
tài nhìn ngắm của Thiền Quán luôn là ở Ðây và
Lúc Này. Nó bình thường thôi, như nước đối với
cá và chính vì vậy ta không nhận ra nó. Như đã
nói, nước là môi trường sống của cá nhưng con cá
đâu có hay biết điều đó cho dù nó đang bơi trong
nước. Thế giới hiện hữu của chúng ta chỉ có ở
Ðây và Bây Giờ, không phải ở đâu xa xôi nhưng nó
chính là cái để ta phải chú ý nhìn ngắm, bằng
một chánh niệm song hành với trí tuệ.
Hãy tập trung chú ý vào con
đường sinh hóa của mọi sự. Chúng ra sao thì thấy
như vậy. Một cơn tức giận đang bừng dậy à? Chẳng
sao cả, chúng ta vẫn đang theo sát nó kia mà!
Hãy nhớ rằng không phải chúng
ta đang cố gắng Ðể Trở Thành một ông thánh hay
một cao nhân nào cả. Chúng ta cũng không nổ lực
Ðể Tống Khứ một ác pháp nào hết. Hãy sống hồn
nhiên và thoải mái. Cảnh giới nội tâm của chúng
ta Là Như Vậy. Nó có thể là bất tịnh hay trong
sáng và đó là một cặp hành trạng đối đãi nhau
của ý thức. Thấy rõ Chúng như là Chúng, thấy rõ
Chúng luôn vô thường, vô ngã thì đó chính là trí
tuệ vậy. Trong khi đó, bằng một ý thức ngã chấp,
chúng ta cố gắng mong mỏi "Tôi sẽ phát triển
những gì thanh tịnh, tống khứ những gì không
thanh tịnh " thì lập tức cái không thanh tịnh sẽ
xuất hiện và kềm hãm chúng ta. Chúng ta lại vấp
vào khối đá thất vọng trên đường đi của mình,
thế là tiếp tục đau khổ. Hãy cẩn trọng với hai
tháng cấm túc này. Vô minh luôn sẵn sàng khiến
cho chúng ta tự chuốc lấy những khổ lụy.
Như vậy, trong một nội tâm
đầy chánh niệm, tất cả hạnh phúc và khổ đau đều
đồng giá trị. Không có gì khác biệt giữa hai
thực tại này hết. Cái nào cũng là Ðang Là, xuất
hiện rồi biến mất. Hạnh phúc vẫn là Hạnh phúc,
Ðau khổ cũng cứ là Ðau khổ. Chúng là cái Chúng
Là. Chúng vô ngã và chỉ có vậy. Chúng ta đừng để
mình phải đau khổ vì chúng. Chỉ việc đón nhận,
nhìn mặt và hiểu biết chúng. Tất cả cái gì có
mặt đều phải có lúc biến mất. Tất cả đều vô ngã!
Tôi xin gởi đến pháp hội bài
nói chuyện này như một công án để các vị tham
chiếu.
-ooOoo-
|
Ðại
đức Pabhakaro
Khiêm cung
Tiểu Sử Tác Giả:
Ðại Ðức Pabhakaro thế danh là Gordon Kappel
sinh năm 1948 tại Seattle, Washington. Nhập ngũ
năm 1967, từng có mặt tại chiến trường Việt Nam
(1969) với cấp bậc đại úy không quân. Trong một
chuyến đi sang Thái Lan, đại đức đã đến viếng
các chùa và tình cờ gặp được chư tăng người Tây
Phương đang tu học tại đây.
Năm 1970, về lại Alabama (Hoa Kỳ), đại đức
dành trọn thời giờ để nghiên cứu Phật Giáo một
cách nghiêm túc, dần dần phát nguyện bát quan
trai giới và học Thiền. Sau đó trở qua Thái Lan,
đại đức tu sa-di ở chùa Wat Bovornives rồi năm
1972 chính thức thọ giới tỳ kheo tại chùa Wat
Pah Pong.
Năm 1977, khi đại đức Samedho rời Thái Lan để
sang hoằng pháp tại Anh Quốc, đại đức Pabhàkaro
coi như trở thành vị viện chủ của tu viện
Nanajat. Năm 1979, sau khi tháp tùng Thiền sư
Ajahn Chah trong một chuyến đi vòng quanh Châu
Âu và Hoa Kỳ, đại đức trở về Thái Lan bỏ ra 18
tháng sống hạnh Ðầu Ðà giữa rừng sâu rồi sau đó
quay về chăm sóc Thiền sư Ajahn Chah lúc này
đang trở bệnh nặng, đồng thời quán xuyến luôn cả
các Phật sự tại chùa Wat Pah Pong.
Năm 1984 đại đức đi Anh quốc để cùng các
huynh đệ thành lập trung tâm Phật Giáo
Amaravatì. Ðại đức hiện là trụ trì chùa Harnham
Vihara và đã từng xuất hiện trên đài truyền hình
trong một chương trình có tên là "Cuộc hóa duyên
về Newcastle".
Bài viết sau đây là nội dung được phỏng lại
của một thời giảng do đại đức Pabhàkaro thực
hiện vào tháng tám, năm 1984 tại Scotland.
Khiêm Cung
Một lúc nào đó, biết ngồi lại để thấm thía
tinh thần uyên áo mà giản dị của Phật pháp,
chúng ta có thể sẽ thấy được ý nghĩa quan trọng
tuyệt vời của cái gọi là cách đối nhân xử thế
hay nói gọn hơn, là phép sống ở đời. Ở đây chúng
ta sẽ có được những kinh nghiệm quý giá về quy
luật đối xứng trong từng hành động, ngôn ngữ và
cả ý nghĩa của mình nữa. Mọi sự luôn để lại một
hiệu quả thích đáng. Tôi đặc biệt nhấn mạnh và
có hứng thú trong đề tài này vì qua chính nó, ta
sẽ có rất nhiều vấn đề để nói. Cái tuyệt vời của
phép sống mà tôi sắp nói tới không phải chỉ được
quan tâm vì nó đã được nói tới nhiều trên các
trang sách mà hơn thế nữa, nó là một thứ kinh
nghiệm tâm linh tự chứng hết sức đặc thù đòi hỏi
một công phu trau luyện của bản thân.
Tôi đang đứng trên bục giảng nên cứ xem là
tôi đang có một cơ hội để san sẻ thứ kinh nghiệm
đó của mình. Tôi đã từng được dạy cách phơi mở
từng phút giây thực tại để tận dụng khả năng cao
nhất của mình nhằm có thể học được cách nói
chuyện bằng chính ngôn ngữ của trái tim, thứ
tiếng nói được phát biểu bằng chính kinh nghiệm
nội tại. Từ lâu, tôi vẫn hướng tâm về một bài
học duy nhất là làm sao có thể sống ban phát một
cách đúng mức. Tư tưởng đó dĩ nhiên đã đem lại
cho tôi rất nhiều đạo lực giá trị nhưng rồi đôi
lúc, trong đầu tôi lại chập chờn những câu hỏi:
"Liệu người ta có cần đến thái độ đó của mình
hay không? Thật ra thiên hạ cần đến một sự tương
giao như thế nào?".
Trong những lúc nhức đầu với mấy tự vấn đó,
tôi lập tức cố gắng quay lại với chính mình bằng
một thái độ buông xả rồi lại tự hỏi: "Cái Tôi từ
đâu đến mới được chứ? Mình từ đâu đến đây nhỉ?"
Theo tôi, tính trung thực là một trong những
giá trị tinh thần thù diệu nhất mà con người cần
thiết phải phát huy, trưởng dưỡng. Ðức tính này
cũng là một trong mười hạnh Ba La Mật của Phật
Giáo. Cho dẫu có tự xét mình theo quan điểm đạo
đức hay tôn giáo, chúng ta cũng sẽ thấy rằng một
khi ngay trong chính thâm tâm mình đã thiếu tính
trung thực, chân thực thì bước đi tiếp theo sẽ
là việc dối người dối đời. Sự dối lòng thì tinh
vi lắm, rất khó phát hiện, nên ta còn có thể tự
dung túng nó. Nhưng để dối người thì vấn đề hơi
gay go.
Hiệu quả của lòng trung thực kỳ lạ lắm. Những
khi sống với nó, tôi tự nhiên thấy mình trở nên
khiêm tốn hơn để có thể chịu thua thiệt với bất
cứ ai một cách dễ dàng. Nhờ nó, tôi đủ can đảm
chấp nhận đời sống dù có phải ra sao. Quý vị hãy
nhớ lại đi, nền văn hóa hiện đại thật ra vẫn
chưa hề dạy ta cái tinh thần khiêm tốn ngay cả
những khi danh từ này được nhắc tới một cách
trịnh trọng nhất. Nào có gì đâu, trong một định
nghĩa bội bạc nào đó, người ta còn bảo khiêm tốn
hay khiêm cung chỉ là cái cử chỉ khom mình thật
thấp về cả ý nghĩa sinh lý lẫn từ ngữ. Thậm chí
có người còn nói thái độ khiêm tốn, về mặt ngữ
nghĩa, chỉ là động tác tự gây cho mình cái cảm
giác thấp kém và bé mọn hơn. Từ đó, người ta
thường cứ thấy ấm ức khi phải tỏ dấu thi lễ,
nhún nhường với ai đấy.
Kỳ thật, trong từng cái cúi đầu như vậy, cái
Tôi trong chúng ta coi như đã ít nhiều được đè
nén nhưng hãy nhớ đấy, hãy luôn cảnh giác với
chính mình khi cử chỉ khiêm cung đó chỉ còn là
một động tác máy móc.
Trong đời sống tu tập của một Phật tử, đức
tính khiêm tốn không chỉ là một dấu hiệu văn hóa
mà còn là một pháp tu nữa. bởi cũng chính từ
đây, sự tiến bộ của chúng ta được thực hiện và
thể hiện. Tôi biết có người sẽ cho thái độ khiêm
tốn là phương hại cho dũng khí nhưng rõ ràng
những gì tôi vừa nói trên đâu có nghĩa là chúng
ta phải nhắm mắt để mặc cho người khác chà đạp.
Tôi không hề kêu gọi các vị hãy nằm dài xuống
mặt đường cho mọi người dẫm lên để trau dồi được
tính khiêm tốn. Ðiều chúng tôi đề nghị ở đây
chính là thái độ tâm lý của mỗi người trong từng
cuộc đối diện và phản ứng với đời sống chung
quanh. Tấm thân sinh lý này thật ra chẳng nghĩa
lý gì đâu, chúng ta nên học cách cúi thấp ngay
từ trong tư tưởng, trong từng quan điểm của mình
kìa!
Hãy thử quan sát điều gì sẽ xảy ra khi ta
không có phản ứng đối kháng trước lời công kích
của ai đó. Phải nói rằng khi xúc phạm chúng ta,
thiên hạ luôn chờ xem một sự trả đũa nào đấy để
họ có thể phỉ dạ, hả hê. Nhưng nếu về phía mình,
chúng ta không có một đối kháng nào để áp dụng
thù tạc lại thì những thị phi kia lúc này coi
như bị tung trợt ra ngoài như một quả banh bị
đánh vào khoảng không. Tôi nhắc lại, chúng ta
không có đối kháng mà chỉ nên bao dung thôi. Và
vấn đề không chỉ dừng lại ở tinh thần bao dung,
chúng ta còn phải hiểu rõ bằng cách nào mình đã
thực hiện được điều đó.
Tôi đã thực tập được điều này trong thời gian
còn sống ta bà. Ngoài những lời mỉa mai, phỉ
báng còn biết bao thứ phũ phàng khác nữa mà
thiên hạ đã trút lên tôi. Chẳng hạn, ngoài cảm
giác tâm lý khó chịu dĩ nhiên phải có khi biết
người chung quanh chẳng ưa mến gì mình, tôi còn
phải chấp nhận cái đinh tai nhức óc khi có người
muốn đuổi theo sau hoặc muốn sánh bước với mình.
Những khi đó, tự trong người tôi quả là đang
trào dâng một nguồn sinh lực bản năng nào đấy để
sẵn sàng bật tung ra cho một đối kháng nhưng
cũng may, bao giờ tôi cũng kịp thời giữ mình và
tiếp quản lập tức nguồn sinh lực đối kháng ấy.
Ðúng là chuyện khó tin khi trong lòng cùng lúc
tất cả phức loạn tâm sinh lý lại tương quan với
nhau một cách nhịp nhàng đến thế. Lúc đó tôi có
cảm giác như sức phản ứng của mình được di
chuyển khắp vùng lục phủ, bàn tay nắm chặt lại
để sẵn sàng hành động nhưng rồi khi nội tâm được
dàn xếp, sức mạnh sinh lý kia trở nên nhẹ nhàng,
ngoan ngoãn cho một sự khuất phục. Như vậy có
thể nói đây là con đường để tận dụng một cách
hữu ích và nhuần nhuyễn mọi tình huống trong đời
sống, biến trở lực thành ra pháp tu mà ý nghĩa
căn bản của nó nằm trong hai tiếng: "khiêm
cung".
Có thể nói hầu như cuộc đời của tôi đã đi qua
những chỉ số tiêu chuẩn nhất, trong một hình hài
cao trên một mét tám và hạng nặng những một trăm
ký. Nhưng đối với tôi, mấy con số đó không hề là
cái gì cả như bọn thiếu niên dậy thì vẫn mong
mỏi có được để tự khẳng định sức vóc và tuổi trẻ
của mình. Nhờ biết quên đi, biết coi nhẹ cái
mình đang có, nên tôi xem như có thể dửng dưng
tẩy xóa được cái ám thị "Cơ bắp, phái mạnh, anh
hùng" trong chính bản thân. Ngày nào chúng ta
còn bị vướng vít với những "tầm vóc, kích thước"
thì công phu thiền quán phải nói là cả một vấn
đề và cũng có thể nói rằng chính nhờ biết quên
đi những ám thị không cần thiết nên tôi đã tìm
thấy cái đẹp thật sự trong đời sống phạm hạnh
của mình. Khái niệm thẩm mỹ cao khiết này đã
vạch ra cho tôi một hướng sống hết sức tuyệt
vời, ngay từ những sinh hoạt bình thường nhất.
Chẳng hạn ở đây mỗi ngày chúng ta có những nghi
thức tôn giáo thoạt xem qua thì rất giản dị như
động tác chắp tay và tụng kinh. Cái khó nhất vẫn
là động tác chấp tay cúi đầu. Chỉ riêng động tác
đó thôi, trên hình thức, thì có gì đâu. Chỉ có
điều là chúng ta thực khó mà "biết chấp tay ngay
tự đáy lòng mình". Ðể thực hiện được điều này ta
phải tự đối diện với sự tự kháng quyết liệt của
nội tâm. Chúng ta thực ra đâu có muốn chấp tay,
bởi có biết bao là những quan niệm đối lập lại
với động tác khiêm cung xem ra có vẻ quá đáng
ấy. Nhưng nói cho cùng thì chúng ta làm những
cái gì?
Ngay chính bản thân tôi trong cuộc đời tu học
của mình cũng đã nhận ra những rắc rối này từ
rất sớm. Nhưng tôi đã may mắn gặp được thiền sư
Ajahn Chah, người mà theo tôi là một bậc chân sư
khả kính nhất. Tôi đã sụp mình đảnh lễ dưới chân
Ngài một cách dễ dàng. Ngài không hề bảo tôi làm
thế, dĩ nhiên, nhưng tôi đã đảnh lễ Ngài vì tự
nhiên muốn làm như vậy. Tôi đã bất chợt nhận ra
là tư thế phủ phục đó đẹp quá, thay vì đứng
thẳng người lên, nói một câu nào đó thật sáo
rỗng mà trong đầu vẫn tồn đọng một cái Tôi to
tướng. Tư thế sụp mình đưới đất như vậy đã đem
lại cho tôi một cảm giác làm sao ấy, nó như tưới
mát cả tim mạch...
Ðể mọi người có thể cùng chia xẻ với chúng
tôi cái cảm nghiệm đó quả là khó khăn. Lớn lên
trong nền văn hóa Tây phương, chúng ta thường có
khuynh hướng chú trọng đến cái gì thực tế. Khách
viếng chùa nhìn thấy những gì hình thức lễ bái,
rất có thể sẽ cho là chúng tôi đã nhồi sọ tín đồ
hoặc những nghi thức hạ mình đó còn là một cách
lập dị để nuôi lớn một cái Tôi.
Người Tây Phương chỉ có thể xem nghi thức
chắp tay gần như là biểu cử của cấp dưới cho nên
khó mà thực hiện và càng không thể hiểu được ý
nghĩa tuyệt vời của nó. Trong khi đó, đứng trước
một cái cúi đầu của mọi người - Theo tập tục
Thái Lan chẳng hạn - thì tự nhiên tôi thấy mình
phải tự biết khiêm tốn bằng cái gật đầu đáp lại
với một sự trân trọng thiệt lòng. Cách cúi đầu
của người Thái xem ra cũng có ý nghĩa tương
đương với cái chấp hai bàn tay (ànjali) của cổ
tục Ấn Ðộ mà người xứ này vẫn gọi là phép chào
hỏi cung kính nhất (Namaste). Họ chỉ chắp tay
lại thôi nhưng trong động tác ấy ngầm chứa một
lời chào "Tôi xin cung đón, cung tiễn hay phủ
phục trước bạn". Ở phương Tây, đặc biệt tại Mỹ,
bạn chỉ cần đưa tay ra nắm lấy bàn tay người đối
diện rồi nói một câu khuôn sáo cho xong "rất hân
hạnh" chỉ vậy thôi. Tôi là một người Mỹ nhưng
cho tới bây giờ vẫn cứ thấy cách chấp tay chào
nhau là một biểu lộ tình cảm đẹp nhất.
Mấy năm trước, lúc còn ở Thái Lan, tôi đã
từng sống gần một nữ tu người Tây Tạng, cô biết
nói tiếng Anh và cũng là học trò của Ngài Ajahn
Chah. Có một buổi chiều phải sang thăm dãy thiền
phòng dành cho các nữ thiền sinh, Ngài Ajahn
Chah bảo tôi đi theo để thông dịch. Sau thời
giảng về thiền như một bài học thêm cho các cô,
Ngài thiền sư dành đôi ba phút còn lại để trả
lời các câu hỏi. Một ngày trước đó, Ngài Ajahn
Chah đã nhìn thấy cô thiền sinh Tây Tạng đi
nhiễu quanh ngôi chánh điện của chùa rồi chốc
chốc lại buông mình trải người xuống đất để đảnh
lễ theo nghi thức Tây Tạng. Chiều nay, trước đám
đông các thiền sinh, Ngài đề nghị cô hãy làm lại
động tác lễ bái đó cho mọi người cùng được xem.
Cô thiền sinh đã vâng lời và lập lại trọn vẹn
nghi thức lễ bái đó.
Cô đã giải thích rằng đôi tay trong lúc này
mang ý nghĩa như một lễ phẩm của toàn bộ thân
khẩu ý chính mình. Ðộng tác duỗi tay và xoay vần
quanh người rồi cuối cùng đặt lên đầu là để
tượng trưng cho tất cả tấm lòng mình đã trao gởi
vào động tác đảnh lễ. Sau đó, cô thả mình nằm
dài trên nền nhà với hai bàn tay chấp lại để sau
đầu, rồi lập lại mọi động tác ban đầu, cô trải
mình xuống đất lần thứ nhì và đôi bàn tay đặt
trên đỉnh đầu để kết thúc nghi thức. Chăm chú
theo dõi từ đầu đến cuối, Ngài Ajahn Chah đã
buông một câu nhận xét: "Ðây cũng là một phép tu
về hạnh khiêm cung và xả thân!".
Tôi không bao giờ quên được buổi chiều hôm đó
với câu nói của Ngài Ajahn Chah. Ngài đã kín đáo
nhấn mạnh cái đẹp của một hình thức sinh hoạt
tuy có vẻ vật chất nhưng lại chứa đựng trọn vẹn
tinh thần xả kỷ vong thân. Bởi nếu có được một
cái nhìn chuyên biệt, ta sẽ thấy rằng chỉ cần
một vài động tác khiêm hạ cũng đã quá đủ để nói
lên tấm lòng chân thành nhất. Tôi nghĩ rằng đến
cả những người ích kỷ và tự đại nhất có lẽ cũng
không thể phủ nhận điều tôi vừa nói trên đây.
Ngay trong đời sống tu viện, chúng tôi gần
như luôn có nhiều cơ hội để tự tìm lấy những bài
thực tập về hạnh khiêm cung thông qua từng cái
cúi đầu của người khác đối với mình cũng như của
mình đối với người khác. Ðối với chúng tôi, chỉ
riêng có chừng đó cũng gần như một pháp môn để
tu học rồi. Vì ít ra đây cũng là biện pháp để
chấm dứt rất nhiều thứ cần được chấm dứt và đây
cũng là một hạnh tu khá đơn giản bởi ngay cả lúc
rảnh rỗi nhất cũng phải nhớ tới. Có khó gì đâu,
chỉ bỏ ra tí thời gian để tự nhìn lại mình và
nuôi dưỡng tâm hồn chỉ bằng từng cái chấp tay
hay cúi đầu thôi. Và đối tượng cho thái độ tôn
kính đó nào có phải đòi hỏi một thần tượng vĩ
đại nào đâu. Chúng tôi chấp tay, cúi đầu và thật
đơn sơ, hướng về một nhân cách, đức tính, phẩm
hạnh nào đó như nhân ái, từ bi và hiểu biết...
Mỗi đêm, trước khi vào giường ngủ, tôi đều
cúi đầu trong tinh thần đó đúng sáu lần và trước
khi rời giường vào buổi sáng hôm sau tôi cũng
lập lại sáu lần động tác đó như một công việc
đầu tiên trong ngày. Không chỉ riêng ở đâu hết,
kể cả những lần qua đêm ở nhà cư sĩ, tôi vẫn
luôn giữ đúng thói quen đó, và sẽ thú vị hơn nữa
nếu trên tường của căn phòng có được đôi ba câu
cách ngôn nào đó. Trong trường hợp không có một
đối tượng nào cả, ảnh Phật hay cách ngôn, lúc đó
tôi có thể sẽ tự mình làm một buổi kinh cầu ngay
trong nội tâm mình bằng những suy tưởng về các
phẩm chất tinh thần nào mà mình có thể vận dụng.
Tôi nghĩ rằng điều này, ai trong số chúng ta ở
đây cũng có thể thực hiện được cả.
Việc thực hiện được hay không, những điều tôi
vừa nói, dĩ nhiên vẫn là sự lựa chọn của mỗi
người. Ðiều đó chúng ta nếu muốn thì cũng có thể
thực hiện bất cứ lúc nào mà, chẳng hạn ngay từ
bây giờ. Và bài học coi như bắt đầu từ đây thưa
quý vị: khi thấy không ai chào mình thì dù không
có phản ứng gì rõ ràng, tôi vẫn cảm thấy một
chút buồn đi qua lòng mình và khi bắt gặp được
một cái cúi đầu, tôi dĩ nhiên nghe mình dễ chịu
hơn. Tôi hiểu được cái khó khăn trong bài học
này, nhưng bởi vì quí vị đã thật lòng muốn học
hỏi nó thì đây sẽ là một bài học tuyệt vời. Ðại
khái, bài học về đức tánh khiêm cung đòi hỏi ở
chúng ta một sự cố gắng tương xứng như thể một
cuộc chiến không hơn không kém
-ooOoo- |
Ðại
đức Khemmadhammo
Ðối
diện thương đau
Tiểu sử Tác Giả:
Ðại đức Khemadhammo (Alan Adams) sinh năm
1944 tại Portsmouth, Anh Quốc. Ngài từng là một
nghệ sĩ trong đoàn kịch quốc gia và đã đi lưu
diễn khắp thế giới. Do một nhân duyên hạnh ngộ,
đại đức đã cảm mộ Phật Giáo rồi bỏ hết sự
nghiệp, sang tận Thái lan tu sa-di tại chùa
Mahathat với Hòa thượng Tan Chao Khun Demp
Siddhumani. Một năm sau đó lại thọ giới tỳ kheo
ở chùa Pah Pong của thiền sư Ajahn Chah. Lúc đó
là năm 1972.
Năm 1977, đại đức đã tháp tùng với Ngài Ajahn
Chah cùng đại đức Sumedho sang thăm Anh Quốc rồi
ở luôn tại chùa Hampstead Vihara. Theo lời
khuyên của thiền sư Ajahn Chah, đại đức
Khemadhammo đã dành trọn thời gian này để tiếp
cận với các tù nhân bị giam giữ tại địa phương
để an ủi và cải hóa họ. Ðại đức tỏ ra rất hứng
thú với Phật sự này và vào năm 1984, đại đức đã
chính thức thành lập Hội Tương trợ Tù nhân Phật
tử lấy tên là Hội Angulimàla. Thành phần chỉ đạo
của hội này gồm các vị đại đức lỗi lạc như đại
đức tiến sĩ Saddhatissa, đại đức Sangharakkhita,
đại dức Sumedho và Lord Avebury.
Ðại đức Khemadhammo đã xây dựng thêm một ngôi
chùa ở Isle of Wight và sống tại đây suốt năm
năm liền. Trong thời gian này, đại đức đã từng
xuất hiện trên đài truyền hình của hảng BBC
trong chương trình "Vẫn Còn Ðấy Lắm Nẻo Ðường ".
Năm 1985 đại đức lại dời chỗ về Forest
Hermitage (Warwick). Tại đây, vào năm 1988 đã
khánh thành một ngôi đại tháp vẫn được gọi là
tháp Shwedagon của Anh Quốc (gọi theo tên một
đại tháp tại Miến Ðiện, nơi thờ tám sợi tóc của
Ðức Phật). Hiện nay, đại đức Khemadhammo đang
sống tại Warwick cùng một số huynh đệ, vẫn tiếp
tục tới lui giúp đỡ các tù nhân rồi mở các khóa
thiền đồng thời cũng là giáo sư thỉnh giảng tại
đại học Warwick về ngành Phật học.
Bài viết sau đây của đại đức Khammadhammo đã
được viết theo yêu cầu của tờ báo định kỳ
Caduceus và xuất hiện trên trang báo vào tháng
12 năm 1987. Nội dung của bài viết đã được thu
gọn trong hai dòng tít: Thiền Quán có thể tận
dụng mọi thứ trên đời để làm đề tài tham chiếu,
pháp môn này có thể biến mọi sự thành từng bước
thăng hoa tâm linh.
Ðối Diện Thương Ðau
Sự đau đớn, dù về sinh lý hay tâm lý, quả là
một đề tài hết sức quan trọng của con người. Ta
có thể nói rằng mọi khổ tâm đều là thứ kinh
nghiệm nội tại về những mức độ và hình thức sai
biệt nhau của tất cả điều bất toại; còn nỗi đau
sinh lý thì lại là những từng tiếng chuông cảnh
báo để con người chúng ta huy động các sức mạnh
sinh lý nhằm đối phó, đề kháng những bất toại
đó. Cả hai nỗi đau khổ này dĩ nhiên chẳng dễ
chịu tí nào và dĩ nhiên là chúng ta ai cũng nghĩ
tới một cảnh giới, cụ thể hay trừu tượng, không
có sự hiện diện của chúng. Việc đi tìm một khả
năng ổn định tâm sinh lý từ đó coi như đã trở
thành một phản ứng tất yếu của con người trong
suốt chiều dài đời sống vốn vô ngã này.
Chúng ta hãy tưởng tượng ra một ngôi nhà tồn
trữ nhiều đồ vật quí giá và được lắp đặt những
trang thiết bị báo động tối tân nhất. Nếu không
có một nhiễu động bất thường nào xảy ra thì mọi
thiết bị đó dĩ nhiên tiếp tục im lặng. Theo thời
gian, các thiết bị báo động có thể phải được
kiểm tra và cũng có trường hợp chúng có những
lần báo động không chính xác. Nhưng tất cả điều
đó, về cơ bản, có thể không gây phiền phức cho
chủ nhân của chúng bao nhiêu. Tuy thế, sau nhiều
tháng hay nhiều năm không hoạt động, chẳng may,
các thiết bị báo động kia thình lình bị hỏng đi
để tiếng còi ré và đèn hiệu của chúng làm mất
giấc ngủ người nhà hoặc chúng im lìm cho người
đạo tặc mặc tình cướp trộm tài sản, chúng ta sẽ
làm gì trước tình huống đó? Tiếp tục ngủ trở
lại, hay tháo bỏ chúng vào một xó hoặc ngồi lại
nghĩ cách đối phó những bất trắc tiếp theo...
Suy cho cùng, chúng ta thật ra vẫn đang đối diện
với một nỗi đau, cái duy nhất mà mình vẫn còn
giữ lại được trọn vẹn!
Chúng ta lúc này chỉ còn có hai thái độ chọn
lựa: Truy bắt kẻ trộm để thu hồi tài sản đã bị
lấy mất rồi lắp đặt trở lại các thiết bị báo
động hoặc lặng lẽ chấp nhận mọi sự và nhìn thẳng
vào những gì vừa xảy ra. Thái độ thứ nhất có tốt
lắm thì cũng chỉ đưa tay quay trở lại tình cảnh
ban đầu. Nắm giữ trong tay mọi thứ bằng một sự
bất an. Mọi cố gắng lúc này lại chỉ tái lập
những điều kiện cho các bất trắc sắp xảy đến.
Các bạn chẳng những không có thêm được cái gì mà
lại còn bị tổn thất bản thân nữa là khác. Ngược
lại, nếu chọn cách ứng xử thứ hai, bạn dù sao
cũng có thể coi như mình đã có được cái gì đó.
Tuy không tiếp tục tìm lại những gì mình đã một
thời sở hữu nhưng xem ra bạn lại có được một thứ
tài sản mới quí giá hơn mà không cần phải nhọc
lòng lắp đặt một thiết bị báo động phiền phức
nào để có thể gìn giữ nó, đó chính là đời sống
sung mãn và yên thân. Kẻ trộm nào có thể đánh
cắp được nó! - Có đúng như vậy không nhỉ?
Ðời sống tu tập của một tu sĩ Phật Giáo như
tôi phải luôn bao gồm một pháp môn tham chiếu về
tấm thân sinh lý và điều đó đã cho phép tôi có
đôi chút kinh nghiệm nội chứng về tình trạng sức
khỏe sinh lý của mình cùng sự hiểu biết về lợi
ích của kiêng khem trong vấn đề ăn uống. Ðã có
thời gian tôi chỉ ăn một số loại rau đậu mà vẫn
cảm thấy thoải mái. Ðức Phật đã từng dạy rằng
quả thật là sai lầm khi ai đó nhắc tới hai tiếng
"Khỏe Mạnh" để nói tới tấm hình hài này dù chỉ
trong khoảnh khắc. Nó là một hiện tượng luôn
biến đổi không ngừng và hoàn toàn không hề có tí
gì trong xác thân này là hoàn hảo cả. Từ đó, ta
có thể thấy rằng Ðức Phật đúng là một y sĩ kỳ
tài nếu xét về lãnh vực y học, mặc dù có thể nói
toàn bộ sự nghiệp trí tuệ của Ngài chỉ nhắm vào
con đường đoạn trừ tất cả phiền não để chấm dứt
toàn triệt mọi khổ đau thật sự của cuộc hiện
hữu, kể cả những cái đau không mấy người nhận
ra.
Ðường lối "Phật Pháp trị liệu" này đã được
chúng tôi vận dụng và truyền bá ngày càng rộng
rãi hơn. Ngay hôm khánh thành trung tâm Forest
Hermitage, các vị sư huynh tôi đã nhắc tới vấn
đề này và đem so sánh trung tâm này với một bệnh
viện nhỏ. Riêng tôi, tôi cứ xem Forest Hermitage
chẳng khác nào một phòng mạch, hơn thế nữa, là
một phòng phẫu thuật. Ðề tài mà tôi muốn nói tới
trong bài viết này chỉ có một danh từ thôi, đó
là Sức Khỏe. Tiếng Sức Khỏe ở đây được dùng
trong ý nghĩa rộng nhất của nó.
Một sức khỏe sinh lý thông thường được nuôi
dưỡng bằng những chăm sóc vật chất và chúng sẽ
suy sụp rồi trở nên vô nghĩa đi theo tuổi đời
của mỗi chúng ta. Riêng cái sức khỏe thứ hai mà
tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh thì lại là một nguồn
sinh lực nội tại được hình thành sự vùng dậy
tích cực của đời sống tâm linh và nếu đã vậy, nó
mới chính là cái Sức Khỏe thật sự cần thiết cho
đời sống mỗi người.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể bỏ mặc tấm thân
sinh lý của mình cho nó ra sao thì ra, nhưng khi
chăm sóc nó ta đừng quên tư niệm rằng mình đang
đầu tư cho một xác chết tương lai. Chỉ có sức
khỏe của tâm hồn mới chính là người bạn đường
thủy chung của chúng ta thôi, mức quan trọng của
nó so ra đáng kể hơn một sinh lực thể xác nhiều
lắm. Bởi cho dù có sở hữu được một thể hình sinh
lý tuyệt vời đến mấy nhưng với một nội tâm bất
ổn thì chúng ta coi như vẫn là một con bệnh.
Trong khi đó, nếu chẳng may tạng phủ và kinh
mạch cũng như ngoại hình của chúng ta có vấn đề,
mà đời sống tâm linh vẫn chói ngời, sung mãn thì
ta lại trở thành một gương sống cho mọi người
nữa là khác!
Chúng ta hãy tự phát họa ra hai nếp sống cho
mình thử xem: Hoặc là ngồi đó khư khư những ham
muốn ích kỷ và hưởng thụ, xây dựng quanh mình
những phương tiện vật chất an toàn nhất rồi ngày
đêm cực lòng đối đầu với tình trạng sức khỏe
bằng đủ thứ liệu pháp và các cách ăn uống kiêng
khem rắc rối góp nhặt được từ những lời khuyên
nhắc của y bác sĩ và thân nhân. Hoặc sống lặng
lẽ trong sự hiểu biết về những gì cần biết với
một tâm thái lành mạnh, mãnh liệt. Có vạch ra rõ
ràng như thế, ta mới thấy được rằng nếp sống nào
là cần có và khả dĩ mang lại một sức sống lý
tưởng...
Cái chúng ta tuyệt đối cần đến chính là thứ
Sức Khỏe đó. Nó đến được với chúng ta qua tất cả
hoàn cảnh và điều kiện sống mà mình đã can đảm
đi qua. ở đó có thể là những đau đớn, giằng xé
hay ngọt ngào êm ái. Nhưng trong chính sự đối
diện, chấp nhận để rồi phân tích và thấu đáo đó,
chúng ta mới hy vọng có được một nguồn sức mạnh
tâm linh mà nãy giờ tôi vẫn gọi là Sức Khỏe thật
sự. Theo như những gì vừa nói, thì rõ ràng là sự
trở lực càng lớn thì càng là một bài học tốt để
người ta lớn mạnh. Chính tôi có lúc cũng đã nghĩ
vậy. Nhưng quí vị cẩn thận đấy, có những đau đớn
không thật sự cần thiết phải có như chúng ta vẫn
nghĩ đâu. Hãy nhớ rằng, bản thân sự đau đớn (bất
luận về tâm hồn hay thể xác) không hề mang lại
cho ta một giá trị nào cả. Vấn đề chỉ nằm ở chỗ
chúng ta đã nhìn ngắm và cảm nghiệm nó ra sao.
Chúng ta phải học cách đối diện với mọi đau đớn
một cách sáng suốt đúng mức để từ bất cứ nỗi đau
nào, trí tuệ cũng đều có thể được khai sinh.
Tôi nhớ có lần được nghe một tay trộm nhà
nghề kể lại rằng anh rất có hứng thú với những
tư gia hay cơ sở có lắp thiết bị báo động trộm
bởi những nơi đó thường có đồ vật đáng giá. Thậm
chí có thể nói là cứ dựa vào mức độ tối tân,
tinh xảo của các hệ thống cảnh báo thì coi như
đã đánh giá được phần nào giá trị vật chất của
các thứ được cất giữ bên trong. Ta cứ nghĩ xem,
nếu ta chẳng có gì để phải nhọc sức trông chừng
hoặc không có một sự ham thích ích kỷ trong bất
cứ ngoại vật nào thì ta có lẽ đâu cần tới những
biện pháp canh phòng rắc rối đó. Chúng có thì
tốt, không có cũng tốt. Ðừng để mình bị chúng
quấy rầy, cứ điềm tĩnh và bình thản xem chúng là
chúng, chẳng liên quan gì tới mình. Ðó là một
sức mạnh tâm linh, một sinh lực thật sự được
trưởng dưỡng từ thái độ vô tham, vô chấp. Tư
tưởng chúng ta lúc này coi như đã hóa băng và
chẳng cần tới một hệ thống báo động buồn cười
nào nữa. Nói một cách khác, chúng ta đã đứng
ngoài mọi đau đớn, cực lòng!
Ðức Phật đã đề cập tới sự đau khổ của tất cả
chúng sinh một cách toàn diện: Vừa sâu sắc chi
li mà cũng vừa phổ quát bao hàm. Ngài dạy rằng
khổ đau trên đời có thể kể thành mười hai hoặc
ba hoặc thậm chí nói có một cũng được. Nói có
mười hai là kể theo giáo lý Tứ Ðế hoặc Duyên
Khởi: Sanh, Già, Ðau, Chết, Sầu, Bi, Khổ, Ưu,
Não, thương phải xa, ghét lại gần, muốn chẳng
được. Kể thành ba là Khổ khổ (tất cả đau khổ tâm
sinh lý theo khái niệm đời thường), Hoại khổ (sự
mong manh của tất cả những gì gọi là hạnh phúc),
Hành khổ (bản chất bất toàn, giả lập của vạn
hữu). Tính gọn còn lại một là Ðức Phật nói tới
thuộc tính căn bản của các hiện tượng pháp giới
luôn phải y cứ nhân duyên mà có mặt.
Tất cả những phân tích đó của Ðức Phật về sự
đau khổ phải nói là quá rõ ràng nhưng tôi nghĩ ở
đây ta cần phải bàn rộng hơn nữa về giáo lý Ngũ
Uẩn, năm thành tố cơ sở mà Phật Giáo vẫn nhắc
tới để phân tích cái gọi là Con Người.
Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức.
Chúng là từng đơn vị pháp giới phù du, vô chủ.
Chúng tôi đôi lúc vẫn gọi chúng là một hệ thống
tồn tại của tâm sinh lý. Sắc Uẩn là tất cả những
gì thuộc về vật chất, bao gồm nhiều đơn tử tương
thuộc lẫn nhau để tồn tại và hoàn toàn vô tri
giác. Tấm thân sinh lý của chúng ta chỉ là chỗ
gặp nhau của các đơn tử Sắc Uẩn. Bốn uẩn còn
lại, có chỗ gọi là Tứ Danh Uẩn, hoàn toàn tương
ứng với cái mà ta vẫn gọi là Ý thức, tư tưởng,
tinh thần hay tâm linh. Bốn danh uẩn này tương
quan mật thiết với nhau để tồn tại, hình thành
nên khối tâm linh với những khía cạnh và chức
năng sai biệt cần thiết. Ðã là một con người hay
một sinh vật, ta không thể sống Ðộc Lập mà không
cần tới những tương thuộc. Tất cả những đơn tử
vật chất hay tinh thần luôn là thành tố nhất
định cho mọi hiện hữu, từ con người cho đến con
chim hay một chiếc phi cơ đang bay trên không.
Mọi hiện hữu luôn hình thành bằng sự tương tác
lẫn nhau qua các nhân duyên.
Thân xác sinh lý và tinh thần của chúng ta
luôn ảnh hưởng qua lại với nhau theo qui luật
trên. Hình thái tồn tại của chúng được qui định
bởi những gì đã cấu tạo nên chúng để tùy thuộc
vào đó mà chúng mất còn. Ở đây ta có thể lấy đôi
mắt làm trường hợp thí dụ. Một cảnh quan tốt hay
xấu bất luận, khi lọt vào nhãn quan ta, nó phải
cùng lúc được ghi nhận với các thành tố tâm lý
liên hệ, đồng thời nó phải là một đối tượng nằm
trong thị lực cho phép của ta nữa. Ta không thể
nhìn thấy nếu không có đôi mắt hoặc đối tượng đó
nằm ở một góc độ không thích hợp và nếu có một
thị lực tốt nhưng cứ nhìn vào khoảng không gian
trong suốt vời vợi thì đôi mắt ta cũng không
thấy được gì hết. Bằng vào sự tỉnh thức của trí
tuệ Thiền Quán, ta sẽ thấy rõ ràng toàn bộ thế
giới với cả những kinh nghiệm của ta về nó cũng
chỉ là các uẩn trong Ngũ Uẩn và cái gọi là Ðau
Khổ cũng chỉ là sản phẩm phù du của lòng ham
muốn mộng mị tự đáy lòng mình, một tình trạng
tâm lý bệnh hoạn yếu hèn.
Cảnh giới cảm nghiệm của chúng ta thực ra chỉ
là một tuồng giả lập của Tứ Danh Uẩn, điểm hợp
quần của các đơn vị tâm lý: Một ý thức (Thức
Uẩn) khi phát khởi để tri nhận sự vật nào đó
phải luôn cùng lúc gắn liền với một cảm giác vui
buồn (Thọ Uẩn) rồi là một kinh nghiệm dựa theo
những khái niệm hay hồi ức sẵn có (Tưởng Uẩn) để
đi đến một thái độ xử lý vấn đề theo một khuynh
hướng tốt xấu nào đó mang giá trị quyết định
tính chất của một đơn vị ý thức mà ta vẫn gọi là
sự cảm nghiệm đời sống (Hành Uẩn). Tất cả những
chi tiết ý thức này diễn ra một cách chớp nhoáng
đủ để ta có một ảo giác về một ảnh tượng, vật
thể nào đó mà mình vẫn ngỡ là đã nắm bắt được
vận tốc và ý nghĩa tồn tại thực sự của nó. Chính
ảo giác này đã tạo ra cái Tôi ngộ nhận mà chúng
ta vẫn trân trọng quan tâm!
Hãy sống tỉnh thức, ghìm cương mình lại và
nội quán cẩn thận để nhờ vậy, trong từng hơi thở
đi qua ta sẽ thấy được mọi thứ trên đời chỉ là
những hiện tượng trôi chảy triền miên, xê dịch
liên tục, không có gì là một thực thể hằng tại
và sự đầu tư những tham đắm về cuộc đời chỉ có ý
nghĩa tự chuốc lấy thất vọng. Ðiều này có nghĩa
là sự nhìn ngắm tinh tế các quá trình vận động
của các tư tưởng, cảm giác cùng mọi kinh nghiệm
khác sẽ giúp cho khái niệm về một cái Tôi sẽ
được phá vỡ và lòng tham chấp đối với nó cũng
được giải quyết theo đó. Ðây là cả một sự hoán
chuyển và thoát xác cực kỳ quan trọng trong đời
sống tâm linh của chúng ta. Ta sẽ bắt đầu thấy
được bản chất như thật của mọi sự vật. Con đường
nội quán và trí tuệ cứ thế mà thành tựu. Chúng
ta chỉ có thể được hạnh phúc thật sự từ khả năng
trí tuệ này chỉ vì một lý do thật đơn giản:
Không bị câu thúc trong bất cứ sự bám víu nào và
đây chính là một khỏe tinh thần mà chúng ta
tuyệt đối cần đến.
Ðức Phật đã tuyên bố rằng lý Tứ Ðế là một hệ
thống giáo lý hoàn hảo một cách tối yếu mà chính
Ngài đã chứng ngộ để trở thành một vị Chánh Ðẳng
Chánh Giác. Giáo lý Tứ Ðế bao gồm bốn phạm trù
căn bản: Khổ đau và nguồn cội của nó, sự giải
thoát khổ đau và hành trình dẫn đến cứu cánh đó.
Nếu xem đau khổ là một căn bệnh thì liệu pháp
của Phật Giáo tức đệ tứ Thánh Ðế được gói ghém
trọn vẹn trong giáo lý Tam Học: Giới học, Ðịnh
học và Tuệ học. Ðối với chúng ta, thiền định là
phương pháp trau luyện, bình ổn và thanh lọc tâm
hồn. Ta hãy tưởng tượng xem nếu có một viên ngọc
nằm dưới đáy sâu của một bể nước luôn nổi sóng
và bị khuấy đục bởi những bùn sình, đất cát thì
dù có đứng trên thuyền nhìn xuống, ta cũng không
tài nào nhìn thấy được viên ngọc kia. Nhưng nếu
ở một bể nước phẳng lặng, trong suốt, không cặn
cáu thì việc nhìn thấy một viên ngọc nằm bên
dưới sẽ dễ dàng hơn bởi trong điều kiện thích
hợp này, ánh sáng của viên ngọc có thể giúp ta
định vị được nó.
Cũng cứ như vậy mà hiểu. Một nội tâm tạp loạn
và hỗn độn mông muội luôn là một trở lực ngăn
ngại cho trí tuệ. Dĩ nhiên, việc dàn xếp một nội
tâm kiểu đó không thể đơn giản như việc kiếm tìm
viên ngọc trong bể nước bởi chúng ta không thể
ngồi chờ đợi một trí tuệ xuất hiện một cách bị
động như người ta có thể ngồi chờ đợi cái thời
điểm yên tĩnh của bể nước để thấy viên ngọc. Ở
đây chúng ta phải biết tỏ ra hết sức năng động
và cùng lúc huy động tất cả các khả năng tập
trung cùng công phu nội quán tức sự tĩnh lặng và
trong sáng để xác định thực tại, đối tượng của
trí tuệ Thiền Quán. Ở trung tâm Forest
Hermitage, tôi đã đề nghị các thiền sinh trau
dồi định tâm bằng phép tu Từ tâm và thực hành
pháp môn Thiền quán bằng con đường hàm dưỡng
Chánh Niệm. Hai pháp môn này được tôi cho áp
dụng song hành nhằm hỗ tương nhau.
Có một điều mà tôi muốn nói thêm ở đây là
trong các giờ thiền tọa, chúng ta rất dễ dàng
bắt gặp những đau đớn tâm sinh lý nói chung.
Chúng có thể là các cảm giác tê mỏi hay nhức
buốt ở một vùng cơ thể nào đó hoặc những tư
tưởng, hồi ức có nguy cơ khơi gợi ở chúng ta một
nỗi đau tâm lý hoàn toàn bất lợi cho công phu
thiền quán của mình. Chúng ta có thể tận dụng
chúng để tu tập được hay không thì điều này còn
tùy thuộc vào khả năng tự lực của bản thân thông
qua trình độ định tĩnh và nội quán tự chính
mình. Một khi đã nhận diện được một nỗi đau đớn
nào đó, bất luận thuộc về tinh thần hay thể xác,
bước đi cần thiết của chúng ta là bằng vào sức
mạnh định tĩnh của nội tâm, hãy cố gắng đưa mình
ra khỏi cơn đau đó, không lún chìm trong nó,
bằng sự quay về với đề mục căn bản mà mình đang
đi theo bằng một sức mạnh tập trung càng lớn
càng tốt.
Có tu tập về Từ Tâm, chúng ta mới dễ dàng có
được cái nhìn khoáng đạt về những nỗi đau. Pháp
môn này giúp ta giải phóng các áp lực của từng
cơn bức xúc khó chịu của tâm sinh lý và đưa ta
nhanh chóng quay lại với án xứ Thiền Quán của
mình. Chúng ta thường có thói quen dùng sự tập
trung tư tưởng như một biện pháp trấn áp, đề
kháng, đối diện với các cơn đau mà quên rằng
điều này tuyệt nhiên không phải là cần thiết. Ta
đừng bao giờ có ý muốn chối từ hay trốn chạy nó
mà ngược lại chỉ nên tập trung vào đề mục án xứ
của mình với một sự chú niệm đúng mức, dẹp bỏ
hoàn toàn mọi ý niệm đối kháng. Ðó là nói về
trường hợp vận dụng Từ Tâm làm phương tiện Tu
Quán và có thể xem đây là một công đoạn thứ
nhất.
Ở bước thứ hai với trí tuệ nội quán khách
quan, chúng ta huy động Chánh Niệm để ngắm nhìn
từng cơn đau đi qua trên thân hay trong tâm
mình. Về ý nghĩa căn bản rốt ráo nhất, Thiền
quán là sự tập trung tất cả tỉnh thức qua mỗi
cảm nghiệm thực tại.
Thực ra có rất nhiều phương cách để giúp
chúng ta thực hiện được điều vừa nói và thật
tuyệt vời nếu ta có thể tự mình đưa chúng vào
đời sống thường nhật của mình, đặc biệt là một
sự hướng dẫn chuyên môn nào đó. Tất cả những đau
đớn được nhận diện qua con đường này sẽ không
còn là vấn đề nghiêm trọng nữa. Chúng có thể mất
đi hay lại tái hiện nếu ta chỉ đón nhận chúng
bằng một thái độ thuần cảm giác. Nhưng cứ khởi
sự trắc lượng chúng bằng sự tỉnh táo nhất, ta sẽ
thấy chúng thật ra không hề là một Nỗi Ðau nào
cả, cũng không phải là một thực thể riêng tư
chuyên biệt chi hết mà chỉ đơn giản là từng giai
đoạn chuyển hóa liên tục của các cảm nghiệm luôn
trôi chảy không ngừng để tương tác lẫn nhau tạo
ra cái mà chúng ta gọi là Ðau Khổ. Chúng ta lúc
này coi như đang sống hết mình với kinh nghiệm
nội quán và cách đối diện với các nỗi đau theo
phương cách này xem ra trung thực và nhiều ý
nghĩa hơn. Bởi ta đã thấy nó và học hỏi nhiều
điều từ nó. Tất cả nỗi đau luôn có thể đem lại
cho ta những bài học quan trọng: Chúng giúp ta
hiểu rằng chúng rất đỗi phù du và không ngừng
biến động, ta chỉ càng nuôi lớn chúng khi chỉ
biết sợ hãi và chán ghét chúng, quan tâm nhiều
tới chúng. Chúng ta có thể vì vô minh mà bị
chính những nỗi đau che khuất trí tuệ bằng cách
nghĩ đến một trạng thái nào đó khả dĩ thế chỗ
cho những cơn đau, cái gì cũng được và có ra sao
cũng mặc, miễn là không phải chúng thì được. Ðây
cũng là một tình trạng sinh lý thiếu sinh lực.
Có nhận ra điều này thì xem như chúng ta đã thực
sự tiến bộ.
Nói tóm lại, điểm kỳ diệu của Thiền Quán là
chúng ta có thể lấy bất cứ cái gì làm án xứ tu
tập cũng được và mọi sự trên đời luôn có thể là
từng bước tiến của chúng ta. Bất cứ thực tại nào
xảy đến, ta chỉ việc quan sát một cách tinh
tường. Không để nội tâm mình bị tác động xấu từ
bất luận cái gì mà chỉ ngắm nhìn nó như là nó
bằng tất cả ý thức tỉnh táo. Nó ra sao thì thấy
như vậy, không đánh giá thông qua một lăng kính
chủ quan nào hết. Mọi thứ luôn luôn tương đối
một cách tuyệt đối. Cái gì rồi cũng đổi khác,
hãy nên sống trọn vẹn với hiện tại, nó kỳ diệu
và cần thiết. Chỉ có cái Ðang Là mới thực sự là
cái mà chúng ta sở hữu được và tìm thấy ở đó một
khả năng trí tuệ. Lời kết thúc cho bài viết này
là hãy thận trọng đời sống tâm linh, giữ được
tinh thần an vui, thấu đáo bản chất như thật của
mọi sự để có được một sức mạnh tâm linh.
Chúng ta hãy lên đường để thực nghiệm điều đó
và nguyện cầu mọi người luôn được an lành.
-ooOoo-
|
Ðại
đức Jagaro
Ý
nghĩa của hạnh phúc
Tiểu sử:
Ðại đức Jagaro (John Cianciosi) sinh năm 1948
tại miền Nam Ý Ðại Lợi. Năm lên mười tuổi, đại
đức theo gia đình sang sống ở Úc Châu. Ðại đức
đã học ngành hóa học tại Viện Nghiên Cứu Kỹ
Thuật Melbourne nhưng rồi trong thời gian sống
giam mình trong phòng thí nghiệm với tư cách một
nhà hóa học, đại đức bỗng nhiên nghĩ tới một đời
sống khác cho mình, một chân trời thoải mái và ý
nghĩa hơn. Cũng như nhiều thanh niên Úc khác,
đại đức đã lần lượt đi du lịch khắp các xứ Bali,
Indonesia, Malaysia rồi cuối cùng là Thái Lan.
Tại đây đại đức đã bước vào đạo Phật và quyết
định xuất gia Tỳ kheo với hòa thượng
Nànasivivatana tại chùa Pleng Vipassana. Lúc đó
là năm 1972 và năm này đại đức vừa đúng hai mươi
bốn tuổi đời.
Năm 1973, đại đức Jagaro đến chùa Pah Pong để
học thiền với Ngài Ajahn Chah. Do nhân duyên
tình cờ, đại đức đã thay thế đại đức Pabhakara
để trở thành trị sự chùa Nanajat. Năm 1982, theo
lời mời của Hội Phật Giáo miền Tây Úc Châu, đại
đức Jagaro đã cùng đại đức Puriso sang Perth để
khởi sự xây dựng ngôi chùa tại đây. Lúc đầu, các
vị sống tạm thời ở một căn hộ ngoại ô; sau đó,
Hội Phật Giáo Tây Úc đã mua lại được một miếng
đất 97 mẫu.
Ðược sự giúp sức của đại đức Brahmavamso, đại
đức Jagaro đã lập nên thiền viện Bodhinyana và
các vị coi như tự xây dựng lấy mọi công trình.
Số lượng phòng ốc tăng dần lên tới con số mười
cơ sở và chư tăng thay nhau mở ra các pháp hội
như là những hoạt động truyền giáo tại các ngôi
chùa mới thành lập và ở cả Trung tâm Phật Giáo
Dhammaloka ở Perth. Ðại đức Jagaro vẫn thường
xuyên đi về Thái Lan và hiện đang được xem là
một pháp sư lừng danh.
Bài viết sau đây được phỏng lại từ một thời
pháp thoại của đại đức Jagaro tại Trung tâm
Dhammaloka, Perth vào ngày 07-06-1985 để trả lời
câu hỏi Phật pháp "Thế nào là chân hạnh phúc?"-
Nội dung của bài viết có thể nằm gọn trong câu
nói sau đây: "Sự giác ngộ không hề mang lại cho
ta một lợi nhuận nào cả, nhưng có thể mang đến
cho ta một niềm hạnh phúc thật sự và vượt thời
gian".
Ý Nghĩa Của Hạnh Phúc
Hạnh phúc theo định nghĩa thông thường nhất
chính là cái gì có tác động tốt đối với trái tim
của chúng ta. Ai cũng muốn mình được hạnh phúc.
Một cách nôm na nhất, hạnh phúc là những gì mình
được toại nguyện cũng như thái độ tầm cầu sở hữu
của bản thân ra sao: Chúng ta muốn mọi thứ luôn
như ý mình. Phải nói rằng đây quả là điều vô
cùng khó khăn, bởi trên đời này có biết bao
nhiêu điều gần như nằm ngoài khả năng sắp xếp
của chúng ta: Một ngày đẹp trời, cuộc gặp gỡ với
ai đó, một sức khỏe ổn định, một mối quan hệ
tốt, một điều kiện thuận lợi để tu tập... tất cả
đều là những gì vượt quá sự dàn xếp của chúng
ta. Ðể có được một niềm hạnh phúc dầu chỉ cỏn
con thôi, xem ra cũng chẳng dễ dàng tí nào. Vậy
thì, trong tinh thần của người Phật tử, chúng ta
phải tìm ở đâu cho ra cái gọi là hạnh phúc?
Chúng ta có thể làm được gì khi bản chất của đời
sống luôn vô thường bất toại? Có khi chúng ta
phải mất đến cả một cuộc đời để đi tìm hạnh phúc
và kết quả sau cùng vẫn chỉ là con số không. Nếu
bạn là một người may mắn, hữu hạnh và có đủ mọi
điều kiện để có được những gì mình muốn thì bạn
cũng chỉ có thể hạnh phúc trong một thời gian
nào đó thôi. Bởi trong đời sống chung quanh và
trước mặt mỗi người có biết bao điều trở lực,
những cái làm ngăn trở ước muốn của chúng ta.
Ðối diện với chúng, ta thường chỉ gặp phải sự
bất toại mà gọi khác đi chính là đau khổ. Như
vậy rõ ràng là đau khổ và hạnh phúc luôn song
hành với nhau, quy định lẫn nhau.
Trong văn học Hồi Giáo thường nhắc tới nhân
vật Nasrudin, một con người kỳ lạ: Ðôi khi thông
minh tuyệt vời, để rồi có lúc lại ngớ ngẩn đến
mức buồn cười. Một hôm, ông ta nước mắt, nước
mũi đầy mặt ngồi ăn từng trái một cái thứ ớt
hiểm cay xé. Mà có ít đâu, trước mặt ông ta có
đến những một giỏ đầy. Một người bạn già đến
thăm, thấy lạ mới hỏi, Nasrudin đưa tay lau mặt
rồi hít hà trả lời:
- Tôi nghĩ thế nào cũng có một trái ngọt chứ!
Trong cuộc sống thường nhật thật ra chúng ta
đâu có khác gì ông Nasrudin khi trong từng ngày,
vật lộn với những điều kiện sống chua chát đắng
cay nhất để mong tìm thấy một chút hạnh phúc
ngọt ngào nào đó, rồi phút cuối cùng nhìn lại có
được gì đâu. Cứ cho là cuộc sống của bạn có đến
chín mươi phần trăm hạnh phúc, nhưng mười phần
trăm còn lại trong nội tâm của chúng ta vẫn còn
đó những âu lo vướng vít. Mà để chấm dứt những
điều này thì đâu phải là chuyện dễ. Cho nên
chúng ta có thể nói rằng đôi khi chính sự sợ hãi
đã giúp ta biết nghĩ về con đường phát triển tâm
linh để mong tìm thấy một nguồn hạnh phúc thật
sự.
Trong Phật Giáo, tiếng hạnh phúc có một định
nghĩa rất đặc biệt và do vậy con đường dẫn tới
hạnh phúc, theo tinh thần Phật Giáo cũng không
giống như cách nghĩ thông thường của chúng ta.
Các bạn nghĩ sao, chúng ta có thể nào có được
hạnh phúc trong một tâm hồn vị ngã chật hẹp luôn
bị lệ thuộc vào đủ thứ hoàn cảnh, bị ảnh hưởng
từ mọi thứ tác động, dĩ nhiên là không. Một hạnh
phúc thật sự phải hoàn toàn vượt thoát tất cả
ràng buộc. Ðó chính là niềm vui của chư Phật,
chư Thánh, một thứ hạnh phúc nằm ngoài mọi hạn
chế và hoàn toàn không dính líu gì đến một cái
Tôi ngộ nhận nào cả.
Khi bạn không có hứng thú trong những điều
kiện sống cũng như những mưu toan dự tính, thì
xem như bạn đã không còn bị bất cứ cái gì trên
đời này giam giữ nữa. Sự tự do đó mới chính là
tất cả những gì bình yên, hạnh phúc nhất. Bản
thân Ðức Phật là một điển hình chói ngời cho
niềm tịnh lạc đó. Tôi dĩ nhiên không được cái
may mắn nhìn thấy Ðức Phật nhưng qua những lần
gặp gỡ các bậc thiền sư, tôi đã cảm nhận được
một điều là các vị luôn sống trong sự hạnh phúc,
một thứ hạnh phúc được hình thành ngay tự nội
tâm với một khả năng tự tại trước mọi hoàn cảnh.
Hồi đó, khi mới sống gần với Ngài Ajahn Chah,
tôi đã rất ngạc nhiên từ phong thái cho đến khả
năng kỳ lạ của Ngài. Ngài là một người hết sức
điềm tĩnh và dưới tay Ngài có biết bao là tăng
ni Phật tử mà tất cả đều sống tuân thủ răm rắp
theo một thời khóa sinh hoạt hết sức nghiêm cẩn.
Ðiều thú vị là Ngài Ajahn Chah luôn có vẻ như
chẳng biết gì đến những điều đó. Ngài sống một
cách rất tự tại và hồn nhiên. Trong đời sống cá
nhân, Ngài Ajahn Chah cứ như không có riêng cho
mình một thời khóa nhất định nào cả thế nhưng
tôi đã nhận ra rằng cái gọi là thời khóa sinh
hoạt của Ngài thực ra vẫn được giữ gìn suốt cả
ngày đêm. Ngài có thể ngồi bất cứ ở đâu, khi có
khách muốn gặp, Ngài luôn tỏ ra rất niềm nở, khi
mọi người đã kéo đi hết, Ngài ngồi lại một mình
như có vẻ đang quay trở lại với niềm hạnh phúc
riêng tư nào đó. Tôi có thể nói rằng thiền sư
Ajahn Chah là người có nếp sống hạnh phúc nhất
mà tôi đã gặp qua trong đời mình. Tôi nói vậy
không phải chỉ vì dựa vào những nụ cười trên môi
của Ngài - Ngài gần như lúc nào cũng cười - mà
phải nói rằng Ngài đã thể hiện niềm tịnh lạc
trong lòng mình qua từng cử chỉ, hoạt động lớn
nhỏ. Ngài sống đơn giản lắm, chẳng nhờ cậy ai
việc gì và cũng không nhắc tới hai chữ hạnh
phúc.
Trong Phật Giáo, hai danh từ Tự Do và Hạnh
Phúc được xem như đồng nghĩa bởi ở đây, ham muốn
là đau khổ, còn tự do là chấm dứt lòng ham muốn
đó. Chúng ta cứ suốt đời xây dựng đủ thứ lòng
ham muốn để mong xác định cái gì đó là Tôi và
Của Tôi. Lòng ham muốn ấy cứ như một hòn đá nặng
trên vai mỗi người. Cái ma lực của cái Tôi lớn
lắm. Dầu có được một lời cảnh báo thiết tha và
nghiêm túc nhất từ ai đó, chúng ta cũng khó mà
chối bỏ ý tưởng về một cái Tôi. Thậm chí nếu
biết được một cách rõ ràng thế nào là cái chân
hạnh phúc của Ðức Phật, một niềm hạnh phúc không
có sự canh giữ của cái tôi nào hết, thì chúng ta
cũng vẫn tu tập với một tinh thần ngã chấp. Cái
tôi lúc này lại càng nguy hiểm hơn. Ðức Phật đã
dạy rằng không có một thứ gì trên đời này đáng
để ta ôm ấp cả. Thái độ không chấp thủ sẽ mang
lại cho ta một niềm hạnh phúc thật sự. Bên cạnh
đề tài Hạnh Phúc, Phật Giáo còn nhắc đến khái
niệm Ðau Khổ và đề nghị ở chúng ta một thái độ
duy nhất là cứ nhìn thẳng vào nó, thấy nó chỉ
đơn giản là cái đang xuất hiện và biến mất. Vấn
đề chính yếu của Thiền Quán là chúng ta bắt đầu
soi rọi bản chất như thật của lòng ham muốn, ý
nghĩa mục tiêu của nó, để bắt đầu cho một thoáng
ý thức hướng dẫn cứu cánh ly tham thật sự.
Lòng ham muốn thật ra chỉ là một sản phẩm ý
thức tự tạo trong tâm hồn chúng ta. Khi ta muốn
bỏ nó, ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm một trạng thái
nội tâm tĩnh lặng. Ðể thực hiện được điều đó,
người ta thường nhắc đến những giây phút tĩnh
tọa, thế nhưng trong những giây phút còn lại của
đời sống thường nhật thì sao? Chúng ta có thể
nào sống hòa nhập giữa đời với một tâm hồn vô
tham vô chấp? Nói cho đúng thì Thiền Quán chỉ là
một phép sống, nên chỉ cần có được một vốn sống
thôi, ở đâu và lúc nào chúng ta cũng đều có thể
thực hiện nếp sống vô tham vô chấp. Vốn sống đó
chính là tinh thần tỉnh thức, một thái độ sốntg
hiểu biết và dấn thân trọn vẹn vào thực tại -
tức là những gì đang xảy ra - một con đò đưa ta
vượt qua bên kia dòng thác lũ của những định
kiến, toan tính và phân biệt. Nhưng điều này có
khó làm lắm không? Tôi nhắc lại, không có sự
tỉnh thức, chúng ta chỉ có thể giam hãm mình như
một con khỉ bị kẹt bàn tay trong lọ mức khi nó
chỉ nghĩ đến việc cầm nắm. Vấn đề ở đây là con
khỉ phải biết buông bỏ hết để có thể tự do ra
đi, chỉ vì hiềm một nỗi là nó đâu có nghĩ đến
chuyện đó. Hãy nhớ, vấn đề tu tập của chúng ta
phải làm chính là chận đứng lòng ham muốn. Ý
nghĩa và bản chất của sự giác ngộ chỉ đơn giản
có chừng đó thôi và tất cả công phu tu tập của
chúng ta cũng như cứu cánh tinh thần của con
đường tu tập đó chỉ nằm gọn trong tinh thần tỉnh
thức, một nếp sống tối ưu mà cũng là duy nhất
cho những người đi tìm một chân hạnh phúc.
Giáo lý của Ðức Phật chỉ là một con đường,
một phương pháp để sống sao cho ngày một hoàn
thiện hơn. Thiền định là một phương tiện giúp đỡ
cho chúng ta qua từng phút giây hiện tại, qua sự
ngắm nhìn vào chính lòng ham muốn của mình và
những tác động của nó rồi cuối cùng là một sự
buông bỏ, khai phóng. Sự tu tập thiền định là
một công phu được Ðức Phật đặc biệt nhấn mạnh.
Càng sống tỉnh thức, chúng ta càng có cơ hội cảm
nghiệm được những trạng thái an lành và hạnh
phúc nhất. Bởi tu chỉ là một cuộc đi với hai bàn
tay buông bỏ, chúng ta không cần thiết phải sở
hữu, thành đạt bất cứ cái gì cả.
Bởi như từ đầu bài đã nói, trí tuệ giác ngộ
không hề mang lại cho ta một lợi nhuận nào hết:
Ở đây chúng ta chỉ làm có mỗi một việc là khước
từ tất cả, hay nói khác đi là đặt xuống mọi gánh
nặng. Ðời sống chỉ là đời sống với những quan hệ
và vận động, thế thôi. Chính tinh thần đó, bản
thân nó đã là một nguồn hạnh phúc thật sự rồi,
ta đâu cần đòi hỏi gì thêm nữa.
Hành trình tốt nhất mà tất cả chúng ta phải
đi qua, đó chính là sự dốc sức vào công phu
thiền định thì đúng hơn, cuộc sống của chúng ta
chỉ có nước mắt và tâm hồn của mỗi người sẽ là
từng trăn trở. Tôi có quen một vị sư người Ðức
tu được mười lăm hạ, khi được tôi hỏi có thường
xuyên thiền định hay không, vị này đã trả lời:
- Mười mấy năm trời tu học, tôi đã chọn lấy
con đường thiền định. Thậm chí tôi còn cho rằng
người ta không thể nào có được một đời sống tinh
thần nếu không có thiền định.
Tôi cứ nhớ hoài câu nói đó của vị sư người
Ðức và cứ xem đó như một đề tài để suy nghĩ. Quả
đúng như vậy, một khi ta không thể làm tĩnh
lặng, thanh lọc nội tâm, không sống tỉnh thức và
ngắm nhìn được bản chất của thân tâm thì ta
không thể nào có được cái gọi là sự tiến bộ của
tâm hồn mà ở đây chính là tinh thần chối bỏ tất
cả để tìm về một nguồn hạnh phúc thật sự.
-ooOoo- |
Ðại
đức Pasanno
Ðiều quan yếu của đời sống
Tiểu Sử:
Ðại đức Pasanno (Reed Perry) sinh tại La
Pass, Manitoba (Canada). Sau khi tốt nghiệp
ngành Sử học tại đại học đường Winnibeg, đại đức
đã đi du lịch sang Ấn Ðộ rồi từ đó ghé lại Thái
Lan.
Năm 1974 đại đức đã thọ giới Tỳ kheo tại chùa
Pleng Vipassanà với hòa thượng Nànasirivatana.
Theo lời thầy hòa thượng, đại đức đã tìm đến học
thiền nơi thiền sư Ajahn Chah.
Là một trong những vị sư Tây phương đầu tiên
sống tại chùa Nanachat, đại đức đã từng làm trụ
trì tại đây suốt bảy năm trời, đồng thời cũng là
một vị giảng sư lừng danh tại Thái Lan. (Hiện
nay, đại đức là đồng viện chủ tu viện
Abhayagiri, California).
Bài viết sau đây được dịch lại từ một thời
pháp được thuyết bằng tiếng Thái của đại đức tại
Buddhamandala gần Bangkok vào tháng chín năm
1987, trong một thiền khóa kỷ niệm ngày lễ lục
tuần của quốc vương Thái Lan. Nội dung của bài
viết chỉ là một lời nhắn gởi thật tha thiết:
"Nếu chúng ta không có được một cái gì đó là giá
trị thật sự trong nội tâm mình thì một mai, khi
đã nằm xuống ta sẽ chẳng còn lại thứ gì ngoài
một nhúm xương hỏa tán".
Ðiều Quan Yếu Của Ðời Sống
Ðức Phật đã để lại cho đời những lời dạy có
nội dung mở ra cho tất cả chúng ta một con đường
hiểu biết về tất cả những gì được gọi là Sự
Thật. Chính nếp sống của một tu sĩ không nhà như
Ngài đã dạy ta hiểu được thế nào là nếp sống dấn
thân trọn vẹn với chân lý. Lời dạy của Ðức Phật
không chỉ dành riêng cho một cảnh đời nào hết,
người xuất gia hay hàng cư sĩ đều có thể thực
hiện được cả. Vấn đề quan trọng nhất của một
người Phật Tử, tăng tục bất luận, chính là sự
hết mình thể nghiệm những giá trị thật sự trong
lời dạy của Ðức Phật. Chỉ cần một sự hết mình
đúng đắn, chúng ta sẽ nhận được tất cả những gái
trị hoàn thiện, tươi mát và tĩnh lặng của giáo
pháp.
Là một người ngoại quốc trên xứ Thái này tôi
cứ thấy nếp sống của một người xuất gia không
nhà cửa quả là hạnh phúc. Tôi vẫn thường xuyên
trả lời một câu hỏi của các du khách đến viếng
thăm chùa Nanachat khi người ta thấy tôi là một
nhà sư da trắng. Hỏi thăm biết tôi đã tu hơn
mười năm, người ta cứ hỏi tôi có chịu đựng được
nếp sống kham khổ này không. Tôi nhớ mình vẫn
thường xuyên trả lời rằng: "Nếu đời tu có gì
không ổn thì có lẽ tôi đã không đi qua được cái
thời gian khá dài ấy. Vả chăng trong nếp sống
của một tu sĩ, tôi vẫn còn có thể làm được rất
nhiều công việc mà mình muốn". Tôi nghĩ đó cũng
là lý do mà tôi đã sống hết mình trong đời tu
cũng như đã tìm thấy được cái hương vị ngọt ngào
trong đó. Một đời sống thiếu đi sự hiểu biết về
nội tâm mình, sẽ luôn tạo ra lắm điều rắc rối.
Bởi cái gì cũng có thể làm ta phải bận tâm cả,
từ những biến chuyển tâm sinh lý bản thân, những
vấn đề thuộc cá nhân cho đến cả nền hòa bình
trên toàn thế giới. Ðứng trước tất cả mọi biến
động đó của đời sống chúng ta chỉ có mỗi một
việc là hiểu biết chúng một cách khách quan tinh
tường đó cũng là cái chức năng và giá trị của
Giáo Lý Ðức Phật.
Trong cuộc tu, điều quan trọng nhất là sự
nhìn thấy rõ ràng rốt ráo mọi sự không thông qua
một định kiến hạn cuộc nào cả. Cho dầu chúng ta
có quan tâm đến hay không, chúng ta luôn có
quyền tự do trong việc lựa chọn cho mình một
hướng đi và có thể nói rằng Ðức Phật là người
duy nhất đã vạch ra cho chúng ta một con đường.
Hãy nhớ trong mỗi người chúng ta không hề có một
cái gì tuyệt đối cả. Ngay cho đến thái độ tiếp
nhận lời dạy của Ðức Phật ở từng người cũng vậy:
Lời dạy của Ngài có thể đem lại cho ta sự giải
thoát, an lành và trí tuệ nhưng cũng có thể chỉ
mang lại cho chúng ta những thất vọng và ngộ
nhận. Chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm lấy
mọi kết cuộc được đầu tư từ ngay nếp sống của
mình. Không có một mực thước ngoại lai nào khả
dĩ giúp ta đánh giá mọi sự là tốt xấu hay đúng
sai. Cũng không có ai đủ thẩm quyền trừng phạt
chúng ta hết. Do đó cái vấn đề mang tính sinh tử
là chúng ta phải biết nhìn ngắm. Cái gì vẫn đang
xảy ra bên trong mình và mình đang làm gì?
Như vậy ở đây chúng ta có thể nhất trí với
nhau rằng vấn đề quan trọng trong cuộc tu là nằm
ở chỗ chúng ta vận dụng lời dạy của Ðức Phật như
thế nào và khả năng nhận thức của chúng ta về
bản thân ra sao. Chúng ta đã có nhiều cơ hội
nghe về giáo lý Tứ Ðế cùng Bát Thánh Ðạo nhưng
rất có thể chúng ta chỉ xem đó như những giáo
điều mà không hề hiểu được rằng giáo lý đó vẫn
được xem là con đường của chư Phật, chư Thánh.
Trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng hóa của Ngài,
trước sau Ðức Phật vẫn không ngừng nhấn mạnh và
nêu bật hai giáo lý quan trọng đó.
Tuần rồi, lúc ở chùa, tôi không thể nào đi
kinh hành được bởi mắc cá chân của tôi khi đó
đang bị đau. Tôi chỉ hướng dẫn các thiền sinh
tọa thiền rồi đến giờ kinh hành thì tôi quay về
phòng riêng. Tôi đã dùng thời gian còn lại để
tụng đọc một số bài kinh ưa thích. Trong số đó
có cả bài kinh Chuyển Pháp Luân, thời pháp đầu
tiên của Ðức Phật mà nội dung chủ yếu nói về hai
giáo lý Tứ Ðế và Bát Thánh Ðạo. Phải nói rằng
xuyên qua bài kinh này tôi đã khám phá ra nhiều
điều quan trọng. Bây giờ chúng ta hãy thử cùng
nhau đi vào nội dung của bài kinh đó.
Trước khi giác ngộ, Ðức Phật đã phải bỏ ra
sáu năm dài để tự mình tìm lấy chơn lý. Ngài đã
thực hiện tất cả những hình thức khổ hạnh khốc
liệt nhất chứ không phải chỉ tu hành một cách
nhàn hạ như các thiền sinh nhút nhát của chúng
ta hôm nay chỉ cần gặp phải một tí khó chịu là
đã dễ dàng bỏ cuộc. Sau khi đã trở thành một Ðức
Phật, Ngài lại bằng mọi cách chia sẻ cái kinh
nghiệm nhận thức của mình cho những người đến
sau. Lúc bấy giờ Ngài đang bước vào độ tuổi ba
mươi lăm, một giai đoạn tuổi đời vừa đủ để được
xem là chững chạc chín chắn. Hãy nhớ rằng nếu
không kể gì đến trí tuệ của một bậc Ðại Giác thì
bản thân Ngài trước đó đã từng là một vị hoàng
tử được giáo dục đến nơi đến chốn. Cộng lại tất
cả khả năng, Ngài quả là thừa sức trong mọi
việc. Ấy thế nhưng ngay sau giây phút đầu tiên
mới vừa thành Phật, Ngài đã không nghĩ gì đến
chuyện trở thành một bậc Ðạo sư cho ai hết.
Thế rồi sau khi xét thấy mình có thể tiếp độ
năm người bạn cũ vốn là những đại sĩ đã từng
sống chung với Ngài trong những năm tháng khổ
hạnh. Ðức Phật đã tìm đến họ và buổi nói chuyện
của Ngài cho năm vị đạo sĩ này chính là bài Kinh
Chuyển Pháp Luân. Như vậy giáo lý Tứ Ðế và Bát
Thánh Ðạo tuy có ý nghĩa tế nhị sâu kín nhưng
cũng không phải là nằm ngoài khả năng nhận thức
của con người.
Ðúng là bài Kinh Chuyển Pháp Luân đã quá quen
thuộc với chúng ta nhưng điều này cũng có nghĩa
là nội dung bài kinh đối với mỗi người xem ra
cũng chỉ là những giáo lý bình thường. Nhưng như
chúng ta đã thấy đó, bất cứ việc gì trên đời này
cũng vậy, kể cả những công việc dung tục tầm
thường nhất, nếu chúng ta biết bỏ ra một sự nỗ
lực nhất định nào đó để thực hiện nó thì chúng
ta mới mong được thành công. Ngay trong chính
giáo lý Bát Thánh Ðạo cũng còn nhắc đến ý nghĩa
quan trọng của Chánh Tinh Tấn kia mà!
Bây giờ thì chúng ta chỉ bàn riêng về Chánh
Tinh Tấn. Ðức Phật đã dùng hình ảnh một khúc gỗ
trôi sông để nói về cuộc tu của người Phật Tử.
Rằng nếu khúc gỗ đó không bị tắp vào hai bên bờ
hoặc không bị chìm xuống đáy sông thì chắc chắn
nó sẽ ra được đến biển. Trên con đường tu tập
của mình, chúng ta có thể tạm thời hiểu rằng hai
bờ sông đó chính là hai thái độ lợi dưỡng và khổ
hạnh, còn sự chìm xuống đáy sông ở đây có thể
hiểu là thái độ biếng nhác. Nếu không bị mắc vào
một trong hai tình trạng trên đây chúng ta may
ra có cơ hội đạt đến Níp bàn. Ðiều này cũng là
một qui luật tự nhiên thôi. Hành trình giải
thoát chẳng khác gì một dòng sông, ở đó không
thể nào chấp nhận cái gì là cực đoan quá trớn
được.
Bát Thánh Ðạo còn được gọi là Trung Ðạo, con
đường đòi hỏi ở chúng ta một sự nỗ lực chuẩn
mực, chính xác và cần thiết. Ðiều này cũng dễ
hiểu thôi, nếu mọi hoạt động của thân khẩu chúng
ta không dung hợp được với tinh thần chung của
các Thánh đạo và nội tâm chúng ta thì lại bị
nghiêng lệch về một khuynh hướng sai lầm nào đó,
hoặc manh động hoặc tiêu cực, thì chúng ta không
thể nào có đủ sức mạnh tâm linh để soi rọi bản
chất của các pháp. Vấn đề chưa hết đâu, không bị
tắp vào một trong hai bên bờ chưa hẳn là đã
xong, chúng ta còn phải biết ổn định lấy mức độ
nỗ lực của mình để khỏi phải bị chìm xuống như
một khúc gỗ không đủ sức trôi xa, và điều dĩ
nhiên ở đây là trong cuộc tu này chúng ta không
thể nào thiếu đi một niềm tin. Một điều có thể
xảy ra là niềm tin đó cũng có lúc bị lung lạc.
Ðiều này tất nhiên rồi. Cuộc tu cứ giống như một
cuộc bơi lội, đôi lúc ta cũng cảm thấy mệt
nhoài, nhưng đừng để mình phải nhọc lòng nhiều
quá, cứ nghỉ ngơi một lát để dưỡng sức rồi tiếp
tục. Như vậy ta cũng đâu bị chết chìm. Hãy nhớ
rằng tu tập chỉ đơn giản có nghĩa là sống hòa
mình với thiên nhiên, với thực tại, mà mọi thứ
thì luôn thay đổi không ngừng. Mọi trở lực trên
đường tu luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do
đó ta càng phải biết sống với một tinh thần bình
thản tự tại để nhìn xem mọi thứ xảy đến rồi cho
trôi qua như thế nào, trong khi vẫn tiếp tục tu
tập. Với sự quan sát nội tâm và nhìn ngắm những
thái độ tâm lý luôn thay đổi liên tục của mình
ta sẽ nhận ra định lý vô thường trong các pháp.
Hãy bằng mọi cách hiểu được cái giá trị cần
thiết của giáo lý Ðức Phật ngay trong đời sống
bản thân mình. Lời dạy của Ngài phải được xem
như những dưỡng tố cho đời sống tâm linh. Không
hiểu được điều này coi như chúng ta đã bị mất
mát nhiều lắm. Có nhiều người khi đến viếng
thiền sư Ajahn Chah thì thường than rằng họ
không có thời giờ để thiền định vì phải giải
quyết quá nhiều công việc. Những khi đó, Ngài
thường hỏi họ:
- Thế thì ông, bà có đủ thì giờ để thở hay
không?
Nói vậy, có phải chăng việc tu tập cũng quan
trọng như từng hơi thở sinh tồn? Một điều hết
sức đơn giản là một khi đã tắt thở thì coi như
chúng ta đã chết. Cũng với ý nghĩa tương tự như
vậy, nếu không có được một nhận thức chín chắn
về bản chất của các pháp, về nội dung của giáo
lý Ðức Phật thì chúng ta cũng chẳng khác gì một
người đã chết. Cái chết ở đây là sự cách biệt
diệu vợi với tất cả những gì hoàn thiện, an lành
và lợi ích. Nếu chỉ sống với một tâm hồn thiếu ý
thức về những gì cần phải được ý thức, tức không
kịp nhận ra những sự thật của sự sống thì sau lễ
hỏa táng chúng sẽ chẳng còn lại được gì đáng kể
ngoài chút xương tàn mà mình đã phải bỏ ra cả
đời để nuôi dưỡng nó. Chỉ có chừng ấy thôi,
không còn gì hơn nữa chúng ta phải học được phép
sống tỉnh thức và trung thực như Ðức Phật đã
dạy. Nhờ vậy mà chúng ta sẽ có thể ung dung tồn
tại giữa cuộc đời này mà không còn bị quấy rầy
và cực lòng với những mâu thuẫn, trở lực cùng
trăm ngàn vấn đề nhiêu khê khác nữa.
Giới học, vấn đề đầu tiên của giáo lý Tam Học
(Giới-Ðịnh-Tuệ), có một ý nghĩa rất quan trọng
đối với tinh thần căn bản của trung đạo. Nó giúp
ta tránh được những xung động quá khích của tất
cả những khoái cảm và đau đớn. Nếp sống có giới
hạnh là một điều kiện tuyệt vời cho một đời sống
có nhận thức. Chính giới hạnh theo tinh thần
trung đạo đã giúp các sinh hoạt và ngôn từ của
chúng ta không mắc phải lỗi lầm đối với tha nhân
và nhờ vậy ta chỉ còn có việc cảm thông, bao
dung tất cả sinh vật. Còn đời sống nội tâm yên
tĩnh thì giúp ta uốn nắn, ổn định tâm hồn mình
thuận theo lý tưởng trung đạo dễ dàng hơn.
Tôi biết, trong từng ngày của thiền khóa này,
ai trong các thiền sinh cũng cố gắng dốc sức
khắc chế nội tâm để trở thành hay đạt tới một
tầm vóc nào đó mình muốn. Các vị ngồi thiền bằng
những vật lộn đối với tự thân một cách khốc
liệt. Các vị đã huy động toàn lực khả năng chú
niệm của mình để keo lui những vọng niệm hoang
đàng về lại với hơi thở. Ðiều đó có thể là tốt
nhưng cũng có thể là không. Một sự nổ lực nông
nổi, manh động, hiếu thắng không hề là Chánh
Tinh Tấn trong con đường Trung Ðạo. Con đường
nầy thật ra phải là một hành trình rộng thoáng,
phiêu diêu với một nỗ lực vừa đúng mức cần
thiết, một khả năng chú niệm chính xác mà nhẹ
nhàng và một sự tỉnh thức trong hồn nhiên mà
vững vàng, thường trực. Chỉ bằng vào công phu tu
tập và một nội tâm thoải mái, chúng ta mới có
thể dễ dàng nhận diện từng khuôn mặt sai biệt
của các pháp cùng bản chất như thật của chúng.
Trong cuộc tu, chúng ta không thể nhất thời manh
động được, càng căng thẳng khẩn trương thì chỉ
khiến nội tâm loạn động thêm thôi. Chỉ việc đơn
giản và nhẹ nhàng nhìn ngắm tất cả những gì xảy
ra trong phạm vi nhận biết của sự tỉnh thức. Dầu
chúng có là những niềm vui hay bất cứ trạng thái
đối lập nào cũng chỉ là từng cảm nghiệm thôi,
những bóng khói hình sương đi qua vùng ý thức
của chúng ta. Cứ lặng lẽ gặp gỡ khách quan với
chúng, chúng sẽ tự biến mất. Tại sao thế? Vì đó
là bản chất của chúng. Hành trình trên đây là
con đường thể hiện của Ðịnh học và Tuệ học. Niềm
an lạc thật sự của chúng ta được khai sinh chỗ
này đây.
Trí tuệ của Ðức Phật dù vẫn được xem là vô
lượng nhưng vẫn cứ là Chánh Tri Kiến. Nhất Thiết
Trí của Ngài có ý nghĩa rốt ráo là nhìn thấy tất
cả bằng một nhận thức như thật về Tam Tướng
(Khổ, Vô thường, Vô ngã). Cái hiểu biết của
chúng ta về mọi sự sở dĩ không được trung thực
là vì trí tuệ chúng ta còn bị khiếm khuyết. Sở
hữu được một khả năng trí tuệ đúng mức, ta sẽ
hiểu biết được cách buông bỏ mọi thứ, từ một
lòng tham muốn, chấp thủ đến những ảo tưởng nông
nổi. Chúng ta hãy tập sự bỏ đi những khuynh
hướng tư tưởng có nguy cơ dẫn tới một cái Tôi
ngộ nhận.
Cái Tôi thực ra chỉ là một giả lập đời
thường. Ngày chào đời, chúng ta đâu có danh tánh
gì đâu. Rồi có ai đó đặt cho chúng ta một chuỗi
tên họ, cái tên gọi được sử dụng từ đó và chúng
ta bắt đầu bận tâm về nó, đem nó gắn liền vào
những cái Tôi. Của Tôi như một cái gì riêng tư
thật sự tồn tại giữa đời, rồi bỏ ra cả đời theo
đuổi nó. Ðức Phật là người hiểu biết trọn vẹn
con đường thoát ly cái tôi này cùng tất cả những
thứ được thoát thai từ nó: Những sở hữu, thành
kiến, định kiến, quan điểm, lập trường. Sự hiểu
biết này có ý nghĩa đình chỉ mọi cơ hội khai
sinh của đau khổ và tạo điều kiện cho ta nhìn
thấy được nội dung như thật của mọi sự.
Như vậy, tu tập Bát Thánh Ðạo là phát triển
toàn bộ những giá trị chín chắn cần thiết cho
một con người. Bằng vào đời sống lấy Tam Học làm
lý tưởng, ta có thể dung thông mọi thực tại. Bát
Thánh Ðạo là một hành trình mà chúng ta nhất
thiết phải đi qua để giải quyết mọi vấn đề liên
quan đến cái Tôi để có được một nếp sống chín
chắn và một tri kiến đứng mức về con đường Trung
Ðạo. Hãy nghiêm cẩn tu học, thành quả luôn nằm
ngay trước mặt chúng ta đấy.
Mới tuần lễ vừa rồi thôi, trong một phút giây
tụng đọc trở lại bài Kinh Chuyển Pháp Luân, tôi
đã bất chợt thấm thía cái giá trị của giáo lý
Bát Thánh Ðạo một cách sâu sắc. Mấy dòng kinh
sau đây đã khiến tôi bàng hoàng:
Cakkhukaramì Nànakaranì upasamàya abhinnà
sambodhàya nibbànàya samvattati - Ðạo lộ này
chính là căn bản của Pháp Nhãn, Thánh Trí là
hành trình dẫn tới sự tịch tịnh, thấu suốt, giác
ngộ và cứu cánh Níp Bàn.
Giáo lý Bát Thánh Ðạo là con đường toàn thiện
mà Ðức Phật đã vạch ra. Ði đúng con đường này,
chúng ta sẽ nhìn thấy được Chánh pháp và trở
thành Chánh Pháp, bản thân sẽ thành tựu Pháp
Thân. Khả năng đó Phật gọi là Pháp Nhãn, sự quán
triệt trọn vẹn bản chất Tam Tướng của vạn pháp.
Ðọc lại kinh văn truyền thống, ta sẽ thường
xuyên bắt gặp đoạn kinh sau đây: "Khi Pháp Nhãn
được mở ra, chứng ngộ các pháp là các pháp, vị
ấy trở thành bậc Nhập Lưu, người chính thức có
mặt trong cảnh giới các bậc Thánh". Chỉ có trí
tuệ được thành tựu từ con đường Bát Thánh Ðạo
mới có thể giúp ta đoạn trừ phiền não, thành tựu
tịnh lạc và chấm dứt tất cả đau khổ. Trí tuệ đó
chính là cái quan yếu nhất của đời sống. Nhưng
nhớ đấy, Bát Thánh Ðạo dù có công năng ra sao
cũng chỉ là con đường mà ta phải tự mình bước
đi, một công phu mà từng cá nhân phải nỗ lực
thực hiện.
Lời dạy của Ðức Phật được tu tập ra sao luôn
tùy thuộc vào khả năng hiểu biết của mỗi chúng
ta. Giáo lý của Ngài đối với mỗi người từ đó
cũng có giá trị không giống nhau. Hãy cố gắng
khám phá toàn bộ ý nghĩa của lời dạy Ðức Phật để
xác định giá trị những lời dạy đó đối với đời
sống bản thân.
-ooOoo-
|
Ðại
đức Anando
Từ
tâm và Nội quán
Tiểu Sử:
Ðại Ðức Anando sinh năm 1946 tại Buffalo, New
York và lớn lên ở miền phụ cận thác nước Niagara
(biên giới Hoa Kỳ với Canada). Học xong trung
học, đại đức đi lính hải quân, bộ phận truyền
tin và phục vụ tại chiến trường Việt Nam. Bất
mãn trước một cuộc chiến phi nghĩa, đại đức quay
về Mỹ, vào đại học Buffalo học tâm lý học và
tiếng Pháp rồi sau đó trở thành chủng sinh của
một chủng viện Thiên Chúa Giáo với lý tưởng trở
thành một linh mục. Thế rồi chỉ vì không thể
chịu nổi đường lối can thiệp của Mỹ tại Việt
Nam, đại đức quyết định từ bỏ nước Mỹ ra đi.
Trong một năm trời học tại Nice (Pháp), đại
đức đã tình cờ được đọc một cuốn sách thiền học
của Alan Watts. Tác phẩm này đã thôi thúc đại
đức thực hiện một chuyến hành hương về phương
Ðông. Cuộc đi xuyên qua các xứ sở Turkey,
Afganistan rồi đến hàng tháng trời ở Nepal, Ấn
Ðộ. Từ đây đại đức đã bắt đầu đam mê thiền định
Phật Giáo.
Năm 1972 nhân một cuộc kiểm tra sức khỏe do
quân đội Mỹ bắt buộc, đại đức đã đi sang Thái
Lan. Trong dịp ghé chơi một ngôi chùa ở Pattaya,
đại đức đã gặp được đại đức Sumedho lúc đó còn
đang ở chùa Kow Chalok tại Chonburi. Ðại đức đã
tu sa-di tại đây rồi sau đó qua chùa Pah Pong
thọ giới tỳ kheo.
Năm năm sau, đại đức Anando về Mỹ thăm gia
đình và thay vì trở lại Á Châu, đại đức đã được
Ngài Ajahn Chah đề nghị theo giúp đại đức
Sumedho hoằng pháp ở Hampstead Vihara tại Luân
Ðôn. Sau đó đại đức còn cùng huynh đệ xây dựng
thêm các ngôi chùa ở Chithurst.
Bài viết sau đây là một trong số các thời
pháp của đại đức.
Từ Tâm và Nội Quán
"Thở vào để hàm dưỡng sinh lực, thở ra với
lòng lành hướng về tất cả chúng sinh".
Ở đây có lẽ ta cũng nên nhắc lại một câu
chuyện nhỏ đã xảy ra sau khi Ðức Phật thành đạo
được hai mươi năm. Lúc này giáo hội tăng già của
Ngài đã phát triển mạnh mẽ lắm rồi nhưng đổi
lại, trong nội bộ tăng chúng đệ tử cũng đã bắt
đầu xuất hiện những cá nhân có nếp sống xô bồ
thiếu nhận thức. Ðó là nhóm tỳ theo ở Kosambì.
các vị cãi vã, xung đột rồi chia rẽ nhau đến mức
khó bề cứu vãn. Nghe được câu chuyện này, Ðức
Phật đã đích thân tìm đến để hòa giải, dàn xếp
nhưng ba lần như một, Ngài chỉ nhận được từ các
vị đệ tử khó dạy này một thái độ bất tuân có vẻ
vô lễ.
Dù sao thì Ðức Phật cũng đã hết lòng với họ
rồi nên Ngài bỏ đi không nói thêm gì nữa và lúc
này Ngài chợt nhớ tới ba vị đệ tử La Hán cũng
đang sống ở Kosambì, trong một khu vườn gần đó.
Ba vị thánh đệ tử này là các tôn giả Anuruddha,
Nandiya và Kimbila.
Tại đây Ðức Phật đã được các vị đón chào nồng
nhiệt và rồi Ðức Phật lại hỏi thăm các vị về đời
sống thường nhật như vấn đề khất thực, trú xứ và
nhất là tình pháp hữu giữa ba người với nhau.
Thay mặt cho cả nhóm, Ngài Anuruddha đã thưa với
Ðức Phật rằng đời sống của các vị không có vấn
đề gì cả, đặc biệt là về tình huynh nghĩa đệ với
nhau. Khi được Ðức Phật hỏi các vị đã sinh hoạt
như thế nào, đối xử với nhau ra sao để có được
cái đạo tình tuyệt vời đó. Ngài Anuruddha đã
tuần tự thuật lại cho Ðức Phật nghe về nếp sinh
hoạt mỗi ngày giữa các vị. Chẳng hạn vị nào đi
khất thực về trước thì tự lo sắp xếp các tọa cụ
rồi để mắt xem chừng các chậu chứa nước còn hay
hết. Sau bữa ăn, vị nào đứng lên sau cùng thì
thu dọn mọi thứ đem cất đi. Từng người trong các
vị giúp nhau chuẩn bị sẵn sàng mọi việc linh
tinh, từ nước uống cho tới nước tắm. Ðời sống
vật chất của các vị vì quá đơn giản nên chỉ có
chừng đó thôi. Mỗi tuần một lần, các vị ngồi bên
nhau suốt đêm để đàm luận Phật Pháp hoặc cùng
tọa thiền. Ðiều quan trọng nhất mà Ngài
Anuruddha đã đặc biệt nhấn mạnh khi thưa chuyện
với Ðức Phật là Ngài đã kể lại một cách tỉ mỉ
thái độ nội tâm của mình đối với các vị đồng
trú:
- Ðối với các huynh đệ, con luôn sống với tâm
Từ hòa, dù trước mặt hay sau lưng nhau. Suy nghĩ
của con luôn chiều theo các vị. Chúng con ba
người nhưng chỉ sống với nhau bằng một nội tâm
thôi!
Ðức Phật quay sang hỏi thăm hai vị tôn giả
còn lại, các vị cũng đều trả lời như Ngài
Anuruddha, Ðức Phật tán dương cả ba vị tôn giả
và khích lệ các vị hãy tiếp tục giữ lại tình cảm
pháp hữu đó.
Bài kinh trên đã dạy cho chúng ta cái giá trị
đặc thù của nếp sống Từ tâm. Ðó là tất cả những
gì mà đời sống tình cảm con người thật sự cần
đến. Như ta đã thấy, giữa các vị A La Hán với
nhau, một thái độ sống đầy Từ tâm vẫn cứ là cái
gì đó thật đẹp. Từ tâm là mối nối tuyệt vời cho
tất cả mọi sự kết hợp giữa người với người, bất
luận cá nhân hay đoàn thể. Từ lâu lắm rồi, trong
suốt những năm tu của mình, Từ Tâm đã gần như
trở thành một pháp môn tâm đắc của tôi.
Trong kinh điển đã từng nhắc đến mười một lợi
ích của pháp môn này. Người giàu từ tâm luôn đi
vào giấc ngủ một cách thoải mái và thức dậy cũng
được nhẹ nhàng. Người có Từ Tâm luôn được phi
nhân và loài người thương mến. Người giàu Từ Tâm
có thể tránh được những nguy hiểm từ các độc vật
(nước sôi, lửa đốt, thuốc độc, vũ khí...). Người
sống bằng Từ tâm nếu đã từng chứng đạt thiền
định thì cũng luôn xuất nhập dễ dàng. Dù đẹp hay
xấu, người có Từ Tâm luôn có một nét mặt dễ
nhìn. Người có Từ Tâm thường dễ giữ được sự bình
tĩnh trong giờ hấp hối. Nếu không phải là bậc
thánh thì sinh thú của người có Từ tâm cũng được
bảo đảm.
Theo tôi, vấn đề khó khăn nhất khi tu tập
pháp môn Từ Tâm chính là sự dàn xếp bản thân.
Trong thiền khóa này qua một số câu hỏi của các
thiền sinh tôi đã nhận ra là hầu như mọi người
đều không thể vượt qua được cạm bẫy thử thách
đối với pháp môn Từ Tâm, người ta cứ sợ cái gì
tẻ nhạt vô vị (chẳng hạn như phải giữ hoài thái
độ sống quan tâm đến người khác) và sự đối đầu
với những gì nghịch ý. Chúng ta hãy thử can đảm
nhìn lại mình xem khi ai cũng cứ suốt đời theo
đuổi, nâng niu cái mình thương thích và bất mãn
với những gì mình chán ghét. Tất cả những thái
độ sống đó thực ra chỉ là những vọng niệm tưởng
tượng và ảo giác hết sức nguy hiểm mà chúng ta
cần phải giải trừ, khai phóng.
Cứ vào mỗi hoàn cảnh, chúng ta lại có một
thái độ phản ứng: Khi chúng ta sợ hãi hoặc chán
ghét cái gì đó, chúng ta cứ muốn tống khứ lánh
xa chúng đi, muốn có một khoảng cách nhất định
giữa mình với chúng. Ðiều đáng tiếc là càng làm
như vậy, chúng ta chỉ càng vô tình nuôi dưỡng
chúng. Chúng tiếp tục tồn tại bằng cách này hay
cách khác dưới bất cứ hình thức nào để ám ảnh và
quấy nhiễu chúng ta cho đến khi nào chúng ta có
thái độ hòa giải với chúng thì thôi. Hồi còn đi
lính ở Việt Nam, tôi đã phải vô cùng khốn khổ
với cái thứ tâm bệnh mà bọn lính tráng chúng tôi
lúc đó vẫn gọi là hội chứng "Nỗi đau quá khứ".
Người ta đã kiểm tra thứ tâm lý này ở các cựu
chiến binh người Việt và nhận thấy phần lớn
trong số đó đều đã mắc phải. Nó là một thứ nỗi
niềm bơ vơ của đời lính, phân vân với trăm nghìn
mâu thuẫn: hành quân thì ngán, dừng chân thì nhớ
nhà, trót quen với cái phong sương của đời lính
mà vẫn cứ nhớ hoài một buổi hồi hương. Người ta
có kiểm tra điều đó thật đấy, kể ra nó cũng là
một công việc thơ mộng nhưng rồi nỗi buồn của
mấy người lính cứ theo ngày tháng mà lớn dần. Từ
mấy năm trước đó, tôi cũng đã học được cái kinh
nghiệm rằng đối với những gì là sợ hãi hay buồn
chán, càng đề kháng chúng, chúng càng mãnh liệt
hơn. Pháp môn Từ Tâm có điểm kỳ diệu là dạy ta
học phép đối diện với những hoàn cảnh sống ác
nghiệt kiểu đó, mà không cần đến một thái độ đối
lập nào cả. Hãy đánh bạn với tất cả mọi sự và
nhìn ngắm chúng một cách trọn vẹn với tất cả
những khía cạnh nào mà ta cảm nhận được, kể cả
đó là những tình trạng tồi tệ nhất của ý thức,
như biếng lười hay sợ hãi.
Thế thì tại sao chúng ta lại không bắt đầu tu
tập pháp môn này ngay từ bây giờ đi chứ? Nhưng
cẩn thận đấy, Từ Tâm không chỉ đơn giản có mặt
khi chúng ta chỉ dành ra đôi ba ngày thầm thì
lẩm nhẩm lời nguyện ( ...mong sao tôi được an
lành và mọi loài cũng được an lành...). Từ tâm
là một cảm nghiệm trải rộng, giăng bủa. Ðối với
một hành giả Thiền Quán, khi nhận ra rằng mình
thật sự đang sống với Từ Tâm thì trước hết đừng
để mình bị cuốn hút theo đó và chỉ nên chú ý
nhìn ngắm nó. Hay nói khác đi, là chúng ta bước
ra khỏi cảnh giới tâm lý đó rồi nhìn thẳng vào
chính nó. Ở đây, ba chữ "bước ra khỏi" cần phải
được lưu ý cẩn thận bởi vấn đề là nằm ở chỗ ta
có thể nhìn thấy được Từ Tâm của mình với trọn
vẹn bản chất của nó mà vẫn hướng về tất cả bằng
một thái độ yêu thương, một thứ tình thương gắn
liền với trí tuệ. Tất cả những ám ảnh tâm lý
trước giờ ở chúng ta cũng sẽ đột nhiên không còn
nữa. Rồi theo thời gian, những suy nghĩ của
chúng ta về chính mình cũng dần dần thay đổi.
Chúng ta sẽ học được cách chịu đựng và chấm dứt
dần những mặc cảm tội lỗi không cần thiết. Trong
trường hợp này, cái giá trị của pháp môn Từ Tâm
là giúp chúng ta ổn định, tẩy rửa những thái độ,
tâm lý của mình để có thể sẵn sàng thực hiện con
đường Thiền Quán.
Lúc tôi còn ở Thái Lan, tại chùa Pah Pong,
tôi đã có lần trò chuyện với đại đức Liam (người
Thái) lúc đó đang làm trụ trì tại đây. Khi đang
trao đổi với nhau về thiền định, đại đức đã nói
rất nhiều về vai trò của pháp môn Từ Tâm trong
cuộc tu. Phải nói đây là một pháp môn khá phức
tạp, chúng ta có thể dễ dàng tu tập nhưng cũng
chính từ đây chúng ta cũng phải chấp nhận rất
nhiều thử thách. Về ích lợi của Từ Tâm, thì
không còn gì phải nói tới nữa, đơn giản thôi
nhưng đôi khi hiệu quả của nó khó mà ngờ được.
Phải nói rằng Từ Tâm là một kinh nghiệm tâm linh
hết sức thú vị nhưng như chúng ta đã biết, đây
không phải là con đường giải thoát toàn triệt.
Chúng ta chỉ nên xem pháp môn này như một phương
tiện đắc lực để có thể dễ dàng dấn bước vào con
đường Nội Quán.
Trong thiền khóa này, tôi muốn giới thiệu với
mọi người một khía cạnh tu chứng mà ta có thể
gọi là Trí Tuệ Giác Ngộ. Nhưng vẫn theo tôi thì
để bắt đầu cho một cuộc khám phá thế giới nội
tại để đạt đến trí tuệ ấy, chúng ta nên dành ra
vài ngày để trau luyện Từ Tâm. Mục đích của sự
trau luyện này là có thể giúp ta nhìn thấy chính
xác những gì đang xảy ra Tại Ðây và Bây Giờ,
thấu suốt cái phù du của từng hiện hữu để ta
thấy rằng chúng không hề đáp ứng được cho ta một
ước mơ nào cả. Tất cả chỉ là ảo vọng. Bất cứ cái
gì chúng ta ghi nhận được cũng đều là cho trí
tuệ Thiền Quán cả. Thấy được điều này coi như ta
đã có được một bước tiến thật dài. Bởi vì từ đây
chúng ta đã hiểu được định lý Vô Ngã.
Ý nghĩa trong phương tiện mà tôi đã dùng
trong đêm nay cũng như những gì mà các vị đã
thực hiện được, chỉ đơn giản nhắm đến một công
án, đó là: "Ai? Ai đang tu tập pháp môn Từ Tâm?
Ai đang lắng nghe trong lúc này? Ai đang ngồi?
Ai đang đau nhức? Ai đang ngạc nhiên? Ai đang
loạn tâm? Ai đang nghi hoặc? Ai đang hạnh phúc?
Ai không được hạnh phúc? Cái này là Ai?".
Hãy nhất tâm nêu bật công án đó, công án chỉ
có một chữ AI thôi, và ghi nhận một cách rõ ràng
từng gốc cạnh nhỏ nhiệm nhất của nội tâm. Rồi
giả dụ như những phức loạn của ý thức đột nhiên
được đình chỉ thì chúng ta vẫn còn phải cực lòng
đối đầu với nhiều vấn đề cực kỳ tế nhị khác; đến
lúc này chúng ta coi như đã đi đến một giai đoạn
nhận thức mà có thể tạm gọi tên cho nó là ý thức
về cái nguồn cội, ý thức uyên nguyên. Nhưng nhớ
đấy ý thức uyên nguyên không hề là tư tưởng về ý
thức uyên nguyên, trí giác ngộ tuyệt đối không
phải là suy nghĩ về trí giác ngộ. Suy nghĩ chỉ
đơn giản là suy nghĩ thôi. Mỗi suy nghĩ lý tính
không thể là câu trả lời cho vấn đề AI.
Nếu chúng ta không cẩn thận, công án AI lúc
này sẽ là một chiếc búa để ta có thể đập ta bất
cứ tư tưởng nào khởi lên trong đầu mình. Vấn đề
ở đây đòi hỏi ở chúng ta một sự khám phá hồn
nhiên chứ không phải là một thái độ năng động
nông nổi. Chúng ta hãy thử nhìn xem bọn trẻ con
săm soi một món đồ lạ nào đó thì ta sẽ thấy
chúng hết mình với nó ra sao. Có thể nói rằng
một thái độ nhìn ngắm tương tự như vậy vốn rất
cần thiết cho công phu Thiền Quán bởi nó đem lại
cho ta một sự ngạc nhiên thiệt thà và cần thiết
nhất.
Bằng vào con đường này chúng ta có thể nắm
bắt dễ dàng những gì vẫn quấy nhiễu mình, bằng
một thái độ hoàn toàn mới mẻ không giống như
trước đây. Phóng tâm được ghi nhận là phóng tâm,
bất an được ghi nhận là bất an mà không cần
thiết phải nhờ đến những khái niệm "Ai đang
phóng tâm? Tôi hay Người nào? Ai đang đi? Ai
đang ngồi?..." Con đường thực hành này có thể
giúp ta cắt đứt một cách hiệu quả những ảo tưởng
vọng niệm.
Tôi cũng biết rằng những kinh nghiệm tâm linh
trên đây không phải ai cũng có thể thực hiện
hoặc thực hiện vào bất cứ lúc nào. Nhưng cũng
đừng vì vậy mà cho rằng những điều tôi vừa nói
chỉ là một thứ lý thuyết suông. Nên hiểu rằng đó
chỉ là một Phương Tiện có thể dẫn đến một hiệu
quả nhất định nào đó thôi. Bởi thực ra nó rõ
ràng chỉ là một thứ kinh nghiệm mà riêng tôi tâm
đắc. Nếu quý vị xét thấy không thể thực hiện
được nó hoặc thấy nó chẳng có giá trị gì thì ít
nhất cũng nên quay lại với Pháp môn Từ Tâm để
tiếp tục nuôi dưỡng ở tâm hồn mình một giá trị
nhân bản. Biết đâu được sự quay lại này đến một
lúc nào đó lại là một cái căn bản cần thiết để
rồi các vị có thể quay về với công án AI. Chỉ là
một cuộc đi thôi nhưng đôi lúc ta phải mắc công
lòng vòng một tí như vậy đấy.
Chúng ta có thể nói rằng, đôi lúc bên cạnh
một công án Thiền Quán có vẻ khô khan quá thì
pháp môn Từ Tâm lúc này lại thành ra một chất
liệu trung hòa. Lời cuối cùng là tôi mong sao
hai pháp môn Từ Tâm và Nội Quán sẽ được các vị
dung hòa, kết hợp một cách nhuần nhuyễn để có
thể đạt tới hai giá trị thiết yếu nhất của đời
sống là hiểu biết và yêu thương.
Hướng Dẫn Pháp Môn Từ Tâm.
(Phần hướng dẫn này có thể được thực hiện
bằng một bài đọc chầm chậm của một thiền
sinh nào đó cho cả một tập thể cùng nghe, dĩ
nhiên trong sự thinh lặng cần thiết. Cứ sau
mỗi một đoạn, tất cả các thiền sinh cùng im
lặng một lát để tiếp tục lắng nghe những
đoạn còn lại. Thời gian cho việc này có thể
chỉ chừng nửa giờ đồng hồ xen kẽ vào giữa
các thời gian thiền định).
Từ Tâm cũng là một pháp môn thiền định, nó
giúp ta có dịp thể hiện nguồn tâm lực mà bấy lâu
nay mình vẫn phung phí. Chúng ta đã từng sử dụng
nội tâm mình vào những việc vớ vẩn mà lẽ ra chỉ
cần chuyển đổi một chút, ta đã có thể tu tập
được pháp môn Từ Tâm. Chẳng hạn như trong những
giây phút nhìn hoa ngắm bướm. Từ Tâm dĩ nhiên
không chỉ đơn giản là một vài giây phút đắm mình
thưởng thức mà là thái độ trân trọng đối với
từng hiện hữu.
Bây giờ chúng ta hãy ngồi xuống và cẩn thận
để ý xem trên khuôn mặt mình có một chút căng
thẳng nào không. Hãy để cặp mắt được thư giãn,
cố giữ cho chiếc cằm và vùng miệng được tự nhiên
rồi tập trung tư tưởng nhắm vào vùng ngực. Sau
đó, chúng ta thở vào với cái cảm nghiệm về một
nguồn sinh lực đang được tiếp nhận. Hãy nhớ, lúc
này tạm thời coi như lồng ngực là khu vực hơi
thở ra vào. Ngay khi hít vào ấy, ta hãy tự ám
thị "Mong sao tôi được an ổn" Ám thị này phải là
một sự chuyên chú hết mình chứ không phải tưởng
tượng. Trong suốt thời gian thực hiện hơi thở
vào ta hãy buông xả mọi thứ để tự nuôi dưỡng một
sự chuyển mình trọn vẹn. Rồi chúng ta lại thở ra
với một nguồn sinh lực được xem như đang lan tỏa
ra ngoài với một lời nguyện "Mong sao mọi loài
được an ổn". Cứ thế chúng ta lại cứ liên tục với
những hơi thở nhịp nhàng như từng điệp khúc đơn
giản và chan chứa lòng mát mẻ hướng về bản thân
cùng tất cả những chúng sinh khác.
Nếu nội tâm có bị phóng tán, ta hãy thanh
thản và kiên nhẫn lập lại sự tập trung. Hãy cố
gắng xem mọi nỗ lực đó của mình là từng vận động
qua lại giữa các nhịp tim, hơi thở và tư tưởng.
Chỉ đơn giản vậy thôi rồi ta tiếp tục thở.
Những gì mà trong từng giây phút chúng ta
thực hiện để tự ổn định lấy mình cũng là những
tác động hài hòa và giao thoa với vũ trụ đất
trời. Sự tương tác này sẽ tăng lực và nuôi dưỡng
chúng ta qua từng hơi thở và tư tưởng như một
kiểu đối lưu hết sức thú vị. Trong từng hơi thở
ra vào ta đã đồng thời NHẬN và CHO; CHO rồi
NHẬN.
Hãy giữ hơi thở được nhẹ nhàng và đều đặn đề
biến từng hơi thở thành ra nguồn sinh lực cho
chính mình. Bởi hơi thở nào, dù vào hay ra, cũng
là một tác động quan trọng đối với trái tim.
Càng phơi trải sinh lực của mình ra ngoài vũ
trụ thì trái tim ta cũng càng lúc trở nên nhạy
cảm hơn để nó có thể tiếp nhận một cách tương
ứng tất cả những sinh lực từ ngoại tại. Nói khác
đi, hơi thở vào giúp ta nhạy cảm, hơi thở ra
giúp ta phơi mở, mà hai yếu tố này đều rất cần
thiết cho một nguồn sinh lực.
Hãy luôn giữ mình trong tình tạng sẵn sàng để
thở với những tiêu chuẩn của thiền định, từng
hơi thở nhè nhẹ mà sâu, kết hợp tư tưởng và hơi
thở thành một. Hãy nhớ thở một cách thong thả
sao cho mình thấy dễ chịu là được. Chính cái tư
tưởng song hành với từng hơi thở kiểu đó đã là
một thứ giác quan cực kỳ bén nhạy. Hãy để cho
hơi thở và sự bén nhạy đó thấm nhuần tất cả châu
thân. Thở ra hay thở vào cũng đều như thế, với
một tâm niệm từ ái hướng về tất cả...
Nếu như trong hơi thở vào, ta nghĩ đến mình
thì ở hơi thở ra, trước hết ta hãy nghĩ đến
những người thân của mình. Ðừng quan tâm đến
chuyện họ đang ở đâu, gần hay xa, còn sống hay
đã chết. Hãy cùng lúc đặt họ vào thành một hình
ảnh, như vậy sẽ dễ dàng hơn. Hãy xem như họ đang
đối diện với chúng ta và ngay rong chính hơi thở
ra ấy ta hãy nghĩ về họ với tất cả Từ Tâm.
Tiếp theo sau hình ảnh về những người thân
trong gia đình, ta hãy nghĩ đến thầy bạn, những
người đã giúp đỡ, dạy dỗ, san sẻ với ta trong
đời sống. Cứ như vậy ở mỗi hơi thở ra, ta lần
lượt nhớ đến tha nhân từ thân đến sơ, từ gần đến
xa. Và như đã nói, ta hãy gom họ lại thành một
đối tượng tập thể trong cùng một thời điểm để
ban rải Từ Tâm.
Một cách thứ lớp, càng về sau, chúng ta lại
tiếp tục nhớ đến những người quen có chút quan
hệ với mình và vẫn nghĩ về họ bằng tất cả Từ
Tâm. Khi không còn hình ảnh Con Người nào nữa ta
hãy nghĩ đến môi trường sống chung quanh mình
như những vườn cây, núi đồi, ao hồ rồi cứ thể
tỏa rộng Từ Tâm của mình ra để bao trùm trái đất
với cảm giác của một người đứng từ bên ngoài vũ
trụ nhìn vào. Trái đất lúc này trong ta chỉ còn
là một dấu chấm nhỏ so với cái Từ Tâm đã bắt đầu
có vẻ trở nên lớn rộng dần dần. Nhưng như thế
chưa phải là đủ, chung quanh ta còn có cả một
bầu trời xanh vô tận. Ta hãy mở rộng trái tim
mình ra để tấm thân này lúc đó không còn bị giới
hạn trong cái hình vóc bé nhỏ của nó nữa mà nó
cũng đã bắt đầu trở thành cái gì đó vô hạn, bao
la có thể dung chứa mọi thứ một cách độ lượng.
Trải lòng mình ra với tất cả mọi đối tượng,
không phân biệt không gian với thời gian nhưng
ta vẫn phải cẩn thận tỉnh giác đối với chính
mình, với từng nhịp tim, với sự tập trung vào
lồng ngực và tiếp tục thở vào thật nhẹ mà sâu,
cũng với tâm niệm hướng về bản thân, vẫn sử dụng
cái tâm hồn vô lượng kia như là một nguồn sinh
lực để nuôi dưỡng chính mình, rồi ta lại thở ra.
Bước đi tiếp theo là trong từng hơi thở ra,
ta vẫn lấy tha nhân làm đối tượng nhưng thay vì
nhớ đến những người mà mình đã từng làm phiền
lòng dù vô tình hay cố ý, bất luận là người còn
sống hay đã mất, ta hãy gọi thầm tên họ và cầu
nguyện: "Xin hãy tha thứ cho tôi".
Rồi ở những hơi thở vào, thay vì chỉ nghĩ về
mình để mong được một sự an ổn thì ta vẫn tiếp
tục nghĩ đến tha nhân mà ở đây là những người đã
làm phiền lòng ta. Hãy gọi thầm tên họ rồi tự
nhủ với lòng mình: " Tôi luôn tha thứ cho người"
hoặc "Người đã được tha thứ rồi". Hãy sống hết
mình và trọn vẹn với từng cảm giác yêu thương.
Hãy đem hết mọi người vào trái tim mình, nghĩ về
tất cả bằng một nội tâm tế nhị, bao dung rồi
tiếp tục thở. Vẫn những hơi thở vào ra trước là
dàn xếp chính mình, sau là độ lượng con người.
Nói một cách đơn giản nhất, hãy thở vào như
một cách hàm dưỡng sinh lực, và thở ra như một
cách chia sẻ. Thở vào cho mình, thở ra cho
người.
Tiếng chuông báo chấm dứt giờ thiền định.
-ooOoo-
|
Tiếp theo |