Ðại đức
Kittisaro
Thiền
định giữa đời thường
Tiểu sử:
Ðại đức Kittisaro (Randolph Weinberg) sinh năm
1952 tại Tennessee. Thời trẻ, đại đức học hành rất
giỏi. Sau khi đạt nhiều giải thưởng quan trọng tại
trường trung học, vào năm 1974 đại đức lại được tốt
nghiệp với số điểm thi xuất sắc về hai môn Sử và
Triết ở đại học Princeton. Sau đó dù rất muốn học
ngành Y nhưng theo yêu cầu trong học bỗng của đại
học Princeton, đại đức phải vào học khoa Anh văn tại
đại học Oxford. Trong thời gian thực hiện bản luận
án về Aldous Huxley, đại đức đã dần dần nghĩ về đời
sống nội tâm.
Ðể công việc nghiên cứu được tốt hơn, đại đức đã
tìm những chỗ vắng vẻ và thật tình cờ, đại đức đã
tìm đến một trung tâm Phật giáo tại Oakenholt gần
khu Oxford. Chính tại đây, đại đức đã gặp một nhà sư
Miến Ðiện (Thượng tọa tiến sĩ Revata Dhamma) và tiến
sĩ Douglas Burns, học trò của Ngài thiền sư Ajahn
Chah. Ðược nghe kể về Ngài Ajahn Chah và Ngài
Sumedho, đại đức Kittisaro đã quyết định tìm sang
Thái Lan để xuất gia. Tháng 2 năm 1977, đại đức
Kittisaro đã thọ giới sa di tại chùa Pah Pong rồi
bốn tháng sau lại thọ giới tỳ kheo, cùng với Ngài
Ajahn Chah.
Trong hai năm sống ở Thái Lan, đại đức Kittisaro
đã mắc phải chúng bệnh sốt nhiễm khuẩn và tưởng đã
không qua khỏi. Thế rồi trong khi bệnh vẫn chưa bình
phục, vì quá nhớ nhà, đại đức đã trở về Mỹ. Từ Hoa
Kỳ, đại đức không quay lại Thái Lan mà đi sang Anh
Quốc sống với các huynh đệ người Tây Phương ở
Chithurst. Ðến lúc này, tình trạng sức khỏe của đại
đức ngày càng tệ hại hơn để mãi đến mấy năm sau mới
từ từ hồi phục. Từ năm 1985 đến năm 1988, đại đức là
trụ trì tại chùa Devon Vihàra.
Bài viết sau đây là những câu trả lời của đại đức
Kittisaro về Phật pháp tại một buổi công giảng ở
Bath và cho những câu hỏi của các giáo sư Tôn Giáo
Học đến viếng Devon Vihàra. Những câu vấn đáp này
đều được thực hiện năm 1986.
Thiền Ðịnh Giữa Ðời
Thường.
Hỏi: Ðại đức có thể cho chúng tôi được biết nếp
sống sinh hoạt thường nhật của đại đức không ạ?
Ðáp: - Ở chùa, chúng tôi luôn thức dậy lúc bốn
giờ sáng để tập thể dục và làm vệ sinh cá nhân cho
đến 4:45 giờ. Từ năm giờ sáng, là thời gian tụng
kinh, thắp hương, đốt nến, chưng hoa và quỳ gối cầu
nguyện. Tất cả những động tác này đối với chúng tôi
là những chuẩn bị để bắt đầu cho một ngày mới bằng
tất cả tấm lòng hướng về Ðức Phật với mong mỏi được
sống trong chánh niệm và tỉnh thức. Có thể nói đó là
hướng sinh hoạt chung cho trọn ngày của chúng tôi.
Huynh đệ chúng tôi luôn có chung một lời cầu nguyện
là "mong sao từng hơi thở của mình trong ngày hôm
nay đều mang lại niềm an lành cho tất cả chúng
sinh".
Sau đó chúng tôi ngồi thiền và thường thì thời
gian này được kéo dài trong một tiếng đồng hồ. Lúc
6:30 giờ, chúng tôi lau dọn phòng ốc rồi uống một
chút gì đó để lót dạ như trà hay bột ngũ cốc. Sau
đó, riêng phần tôi thì có thể đọc sách hoặc trò
chuyện với huynh đệ. Công việc này cũng không chiếm
nhiều thời gian và chúng tôi lại đi khất thực quanh
các khu dân cư lân cận. Trên đường đi, chúng tôi
không được có một thái độ hay cử chỉ nào không cần
thiết. Việc khất thực đối với chúng tôi chỉ là một
bổn phận phải được thực hiện trong một cung cách
thật chuẩn mực: không cố ý làm phiền đến ai, cố
tránh mọi thái độ có thể gây phiền phức hoặc khó xử
cho bất cứ ai, mà chỉ lặng lẽ đi qua từng nơi vừa đủ
để người ta biết đến sự có mặt của mình. Chúng tôi
phải luôn tỏ ra sẵn sàng nhã nhặn và nghiêm túc
trước những người đặt bát hoặc muốn trao đổi gì đó.
Hiện nay trong khu vực gần chùa chúng tôi đã có
khoảng mười lăm gia đình là thí chủ thường xuyên
thỉnh về cúng dường tại cư gia theo lịch trình các
ngày trong tháng. Như vậy trong giờ khất thực, chúng
tôi chỉ từng bước lặng lẽ với chiếc bình bát trong
tay mà không nói hay làm cái gì thừa thãi. Chúng tôi
dùng cơm trưa lúc 11:30 giờ. Thức ăn gồm những món
khất thực được hoặc cũng có thể là các thứ Phật tử
mang đến tận chùa cúng dường. Sau giờ ăn, tất cả
chúng tôi về phòng riêng nằm nghỉ một lát.
Bắt đầu từ buổi xế chiều trở đi, tôi luôn có
nhiều việc để làm. Chẳng hạn như gặp gỡ khách khứa
và dạo một vòng tu viện để nhắc nhở các lớp thiền và
lớp học. Chúng tôi thư dãn bằng cách uống trà trong
đôi ba phút rồi sau đó là lên chánh điện lúc 7:30
giờ tối để tụng kinh, đôi khi là có các Phật tử
quanh vùng cùng đến dự. Mỗi tuần có ít nhất là hai
buổi chiều thuyết pháp cho các Phật tử và một đêm
thức trắng để thiền định trong hai tư thế thiền tọa
và kinh hành.
Có thể nói rằng chúng tôi phải mất hàng mấy năm
trời để tu học được cách sống chung đụng trong một
tập thể gồm toàn những người dưng với nhau, học cách
đối nhân xử thế, học cách sống cô đơn và đạm bạc
trong một điều kiện vật chất hạn chế tối đa. Ở đây,
tôi muốn nhấn mạnh đến cái khó khăn nhất của đời
sống tập thể là phải biết lãng quên chính mình đi,
không cực lòng về cái vị trí của mình trước mọi
người. Những khi rỗi rảnh, tôi vẫn luôn tìm đến vấn
an các bậc trưởng lão. Ðối với tôi, việc đó luôn
mang ý nghĩa nối kết tình pháp hữu mà không cần
thiết phải bận tâm đến việc đánh giá xem các vị đó
có hơn kém gì mình. Tôi cho đó là một cách sống
thiết yếu và có nhiều ý nghĩa: Trước hết là tinh
thần tôn ti trật tự và sau đó còn là dịp để học thêm
đức tính khiêm cung. Trong một ngôi chùa, mỗi cá
nhân là một thành viên và không có qui định nào để
ai đó có thể tự cho mình là khôn ngoan hơn cả. Càng
lúc, tôi càng thấm thía được cái ý nghĩa tuyệt vời
trong việc vấn an, đảnh lễ các bậc tôn túc.
Hỏi: Xin Ngài cho biết một nếp sống được xem là
cần thiết cho người Phật tử?
Ðáp: - Thường thì Ðức Phật đề nghị các Phật tử cư
sĩ nên giữ tròn năm học giới ngay trong đời sống
thường nhật của mình. Ðó là: Tránh sát sinh, tránh
trộm cướp, tránh gian dâm (quan hệ tình dục bất hợp
pháp), tránh nói dối, và tránh uống các thứ gây say.
Có giữ được năm học giới này ta mới có dịp để hoàn
chỉnh nhân cách tốt hơn và giữ giới trong tinh thần
hiểu biết. Chúng ta phải thấy được một cách rõ ràng
là đời sống của mỗi người luôn bị thúc đẩy bởi đủ
thứ ham muốn và chúng ta nên cố gắng trung thực nhìn
thẳng vào lòng mình để khỏi phải sống tuân theo cái
bản năng cuồng điên. Chúng ta phải thấy được cái
nguy hiểm từ các áp lực tham dục đối với những sự
vật cần được nhìn thấy. Chẳng hạn bia, rượu cùng các
thứ thuốc kích thích khác đều là những thứ làm ta mê
muội đi. Nếu không có phát nguyện thọ trì các học
giới thì chúng ta rất khó có được cái trang bị tâm
lý để kiêng khem những đòi hỏi vật chất tội lỗi.
Nhưng nhờ có một lời nguyện trước Tam Bảo thì chỉ
riêng cái ý nghĩa tinh thần của nghi thức đó cũng có
thể giúp ta dễ dàng thực hiện hơn. Các học giới tuy
có vẻ đơn giản nhưng cái giá trị thực dụng thì lớn
lắm. Không giữ được các học giới, chúng ta không thể
đủ sức hiểu được cái đau khổ của đời sống, trong khi
con đường giác ngộ giải thoát lại được bắt đầu từ
đó.
Hỏi: Ðạo Phật có nói gì về tình yêu hay không?
Ðáp: - Phật giáo dạy rằng sự yêu thương, trong
bất cứ trường hợp nào, cũng nên có sự hiểu biết đi
chung. Thông thường thì chúng ta cứ khư khư một định
nghĩa về hai chữ yêu thương: đó là cảm giác "thấy
thích, muốn có, muốn được, muốn gần". Chúng ta gần
như sử dụng động từ này một cách quá bừa bãi. Bừa
bãi ở đây có nghĩa là sử dụng nó trước khi cho nó
một định nghĩa thật rõ ràng. Theo tinh thần của Phật
giáo mà nói thì Yêu hay Thương một người hay một sự
vật nào đó thì có nghĩa là ta đang "chạy theo" hoặc
muốn kết hợp với đối tượng đó và nói như vậy thì một
sự yêu thương đúng mức, như đã nói, phải gắng liền
với một sự hiểu biết: Hiểu biết để lắng nghe và chăm
sóc.
Chẳng hạn như một bà mẹ thương con thì bà luôn
chú ý đến những gì nó cần. Thái độ đó đâu phải lúc
nào cũng làm cho bà mẹ được hạnh phúc, nhưng chỉ vì
thương con nên bà phải làm như thế. Chẳng hạn như
khi đứa bé bị giật mình rồi khóc đêm thì dù muốn hay
không, bà mẹ vẫn phải thức trắng với nó. Vì tình mẫu
tử, bà mẹ thành ra một khối với đứa con mình. Ðứa bé
lúc này coi như đã thành ra cái đối tượng để bà mẹ
hóa thân. Theo cách hiểu của tôi về lời dạy của Ðức
Phật thì sự yêu thương trong sạch nhất không hề có
sự pha lẫn nào với một trạng thái hiềm khích xung
đột. Sự yêu thương phải là thái độ "chiều đón" nhau
mà sống, đối với nhau bằng tất cả tấm lòng rồi chăm
sóc, lưu tâm với nhau. Như vậy, thái độ thủy chung
là một yếu tính rất cần thiết trong sự yêu thương.
Có thể quý vị ở đây sẽ có người cho rằng kiểu yêu
thương đó xem ra có vẻ tù túng và thiếu kịch tính.
Sự yêu thương kiểu đó đâu có linh động và xem ra
chẳng có được bao nhiêu ảnh hưởng đối với cuộc đời
xung quanh. Nhưng ta thử nhìn lại xem, một sự yêu
thương thủy chung như vậy luôn có một sức tác động
rất lớn, nó có thể gây tạo ở chúng ta một khả năng
hoán chuyển sâu sắc. Phải nói rằng đây là tất cả
kinh nghiệm của chính bản thân tôi, đặc biệt là
trong những ngày tháng bệnh hoạn. Tôi đã may mắn
không chết, để cho đến bây giờ tôi ít nhất cũng có
thể tới lui đây đó và gặp gở mọi người. Trong nhiều
năm qua, tôi gần như chỉ sống vật lộn với tấm hình
hài này trong tất cả khó khăn và đau đớn. Tôi đã
phải chạy theo tình trạng sức khỏe của mình trong
từng ngày, từng giờ, để đối diện với nó, trông chừng
nó và vận dụng tất cả những nguồn dinh dưỡng cần
thiết nhất.
Chúng ta nhận thấy rằng các nhà khoa học hôm nay
dường như đã không còn giữ lại cái cách bàn thảo
chung chung nữa, họ xé nhỏ các lãnh vực chuyên môn
ra thành từng vấn đề để giải quyết. Vấn đề đơn giản
nhất đề chúng ta nhìn vào mọi sự là bắt đầu thay đồi
chúng. Như tôi đã nói, sự yêu thương trong Phật giáo
không thể để song hành với một thái độ so sánh nào
cả. Mọi sự yêu thương thật sự phải đứng độc lập thì
nó mới được tồn tại trọn vẹn. Nếu chúng ta còn nghĩ
đến việc "ghi nhận" đối tượng mình ghét để có thể
xác định sự yêu thương đối tượng mình thích thì rất
có thể trước khi có được sự yêu thương, tâm hồn
chúng ta đã đầy ắp những chán ghét. Mà Ðức Phật đã
dạy: Lòng oán ghét không bao giờ có thể được giải
quyết bằng chính lòng oán ghét. Ðể dàn xếp nó, chỉ
có tình thương mà thôi. Như vậy mọi tâm lý thù
nghịch chỉ có thể được chấm dứt thông qua một tâm lý
bao dung chứ không thề được chấm dứt bằng bất cứ tâm
lý nào mang tính sát phạt, đối nghịch. Ta càng nỗ
lực chấm dứt thái độ oán ghét, thù nghịch trong khi
chưa tự có được một tấm lòng yêu thương thật sự thì
chỉ càng hoài công thêm thôi.
Hỏi: Chúng tôi rất muốn được biết thái độ của
Phật giáo về những vấn đề mà thế giới vẫn đang quan
tâm, chẳng hạn như vấn đề vũ trụ quan hay nguồn gốc
của tất cả mọi sinh vật?
Ðáp: - Phải nói rằng đây là một vấn đề cực kỳ
mông lung mà cho dầu chúng ta có ngồi lại để nói tới
như những chuyện vui thì không biết cho đến bao giờ
mới đủ. Còn đòi hỏi đến những giải đáp mang tính
khoa học nghiêm túc thì chắc chắn là sẽ mất thời
gian mà thôi. Ðức Phật đã từng dùng đến một câu
chuyện ngụ ngôn để nhắc nhở chúng ta hãy biết cẩn
thận trước những khao khát tri thức về các vấn đề
vừa nói. Ngài đã đưa ra hình ảnh một người bị trúng
tên độc vẫn lì lợm không chịu để cho người khác trị
thương giúp mình để rồi cứ khăng khăng đòi được trả
lời những câu hỏi vớ vẩn của mình về thân thế của
người bắn tên, chất liệu của cây cung và mũi tên...
nạn nhân chắc chắn sẽ chết đi trước khi được nghe
những câu trả lời.
Ðã có rất nhiều người đến hỏi Ðức Phật những vấn
đề thật ra nếu có được trả lời thì cũng chỉ có ý
nghĩa là làm thỏa mãn một cách nhất thời những thắc
mắc của họ: "Vũ trụ là vô biên hay hữu biên? Ðiều gì
sẽ xảy ra cho vị A La Hán sau khi vị này viên tịch?
Dòng luân chuyển sinh diệt của thế giới được bắt đầu
như thế nào?..." Thường thì trước những câu hỏi này,
Ðức Phật chỉ có một lời đáp mà đại ý là: "Người ta
sẽ chết đi trước khi nghe xong câu trả lời cho những
thắc mắc đó. Hãy nhớ rằng thân người là một cơ hội
tuyệt vời để thực hiện lý tưởng giải thoát, hãy tận
dụng nó một cách có ý nghĩa, đừng làm hoang phí nó
bằng những điều vớ vẩn".
Ðiều thật sự cần thiết của tất cả chúng ta là
giải thoát khỏi vô minh để thưởng thức được cái
hương vị giải thoát. Giải thoát ở đây là sự vượt
ngoài những ảo tưởng về cái Tôi, Của Tôi, vượt ra
khỏi những gì vẫn giới hạn chúng ta từ bấy lâu nay.
Lời dạy của Ðức Phật luôn nhắm tới cái khả năng giải
thoát vô minh và đau khổ ở mỗi con người. Chúng ta
đừng tiêu phí thời gian cho những khao khát kiến
thức không cần thiết. Thời gian là hiếm hoi, hãy
tranh thủ nhổ ra mũi tên độc ở chính mình và bước
thẳng vào con đường tu tập.
Hỏi: Xin hãy cho biết thái độ của Phật giáo đối
với các vấn đề xã hội cũng như những gì Phật giáo có
thể đóng góp cho xã hội?
Ðáp: - Trước hết, theo tôi thì tất cả chúng ta ở
đây nên xét lại cái quan niệm cho rằng nếu chỉ với ý
chí, tức chỉ có đời sống tinh thần, thì coi như
chẳng đóng góp được gì cho ai. Có một điều mà tôi
biết rất rõ là khi trong chùa tôi có một vị nào đó
vui tính dễ chịu hoặc nóng tính khó gần thì chỉ
riêng điều này thôi cũng đã có những ảnh hưởng không
nhỏ đối với các vị chung quanh.
Chúng ta phải nhận rằng giữa thiện chí với hành
động cụ thể đúng là có một khoảng cách rõ ràng.
Nhưng ta cũng thấy rằng cái thiện chí ở mỗi người
luôn có một vai trò rất quan trọng. Cùng nhìn vào
một vấn đề, nhưng mỗi người có một cách giải quyết
riêng . Ðiều này xuất phát từ ý tưởng của chúng ta,
có thiện chí hay không có thiện chí.
Những người Phật tử chúng ta có thể đem tinh thần
của Lý Tứ Ðế mà áp dụng vào đời sống. Thánh Ðế thứ
nhất dạy cho chúng ta về tất cả đau khổ trên đời nói
chung và trong đời mình nói riêng. Thông thường thì
khi gặp phải đau khổ, chúng ta luôn tìm mọi cách đế
trốn tránh nó, trốn tránh trong một tinh thần hèn
nhát và mù quáng. Ðức Phật dạy rằng thái độ đó sẽ
không bao giờ giúp ta thoát khỏi đau khổ được. Rồi
chúng ta lại ôm ấp tất cả những gì khoái lạc và hạnh
phúc, thế nhưng có thứ hạnh phúc nào lại không thay
đổi, bởi dù gì hạnh phúc cũng chỉ là một sự thật
mang tính Tương Ðối. Vấn đề chính yếu đối với Thánh
Ðế thứ nhất là chúng ta phải học cách nhìn thẳng vào
tất cả đau khổ.
Ðiều này xét ra cũng giống như câu nói của Ðức
Chúa Jesus: "Các con hãy nhặt lấy chiếc thập tự
giá". Về sử học và theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì
chiếc thập tự giá là biểu tượng cho tất cả sự trừng
phạt và đau đớn. Những người Phật tử chúng ta cũng
thế, chúng ta phải có can đảm chấp nhận cái thập tự
giá của đời mình, phải biết đối diện với tất cả sự
thật mà đừng vận dụng một cách trẻ con bất cứ một
khả năng nào đó để trốn chạy đau khổ, buông khỏi tay
mình chiếc thập tự giá. Như đã nói, chúng ta phải
biết nhìn thẳng và phân tích tất cả đau khổ mà mình
đang đối diện. Ðừng sợ hãi chúng rồi xuôi tay quy
hàng.
Nói ra thì có vẻ thần thánh, một lần nào đó,
chúng ta hãy thử nhìn vào từng cơn đau thì sẽ thấy
nó chỉ là một giai đoạn cực ngắn của một chuỗi dài
cảm giác luôn biến đổi thật nhanh. Ðiều này cũng dễ
hiểu thôi, cái mà chúng ta vẫn gọi là những đau đớn
nhức buốt thật ra đâu phải là một hiện hữu bất biến.
Như vậy thì ta cũng có thể nói rằng đau khổ là cái
mà các nhà khoa học phải học hỏi thêm: Bởi ngay
chính sự đau khổ rồi cả thái độ nhìn ngắm nó cũng là
từng đơn tử luôn sinh hóa. Có tận mắt ngắm nghía
những đau khổ, chúng ta mới thấy được rằng bản thân
mỗi người thật ra chỉ là từng biến thể của nó trong
mỗi khoảnh khắc. Hiểu biết được điều này, sống hết
mình với nhận thức này, chúng ta sẽ được cái thái độ
tỉnh thức trọn vẹn trước mọi đau khổ và hạnh phúc.
Phát hiện ra chân lý này, chúng ta sẽ cảm nhận được
lắm điều thú vị: Từng nỗi đau hay từng cơn đau đớn
chỉ là những người khách lạ chợt đến chợt đi mà sự
hiện hữu của chúng ta chỉ là một chuỗi dài ghép nối
của những đau khổ và hạnh phúc. Như vậy chúng ta
từng người vẫn là những kẻ khách lạ giữa trần gian
luôn đổi thay này.
Nãy giờ là chúng ta đã nói về hai chữ "ý chí",
còn theo Phật giáo thì nếp sống Hành Ðộng phải thực
hiện ra sao? Cái yêu cầu cao nhất của những người
Phật tử là phải có được cái can đảm phơi mở tâm hồn
và nhìn thẳng vào những gì thật sự cần được thực
hiện chứ không phải đưa mắt nhìn ngó mông lung về
những gì xa vời, viễn vông. Ðiều đáng buồn cười là
chúng ta thường có thói quen thích chú ý đến những
chuyện khác mang tính "đời thường, tiểu tiết" như về
gia đình hay cách cư xử thì chúng ta chẳng mấy khi
quan tâm. Chúng ta đã quên mất một điều là nếu không
thực hiện được những "tiểu tiết đời thường" đó, thì
sinh hoạt của chúng ta lập tức bị xáo trộn. Chúng ta
có thể nói thật nhiều về thái độ sống hài hòa và
đoàn kết nhưng đã có mấy ai giữ được mình khi phải
đối diện với những vấn đề đó một cách nghiêm túc.
Vậy thì kể từ bây giờ, chúng ta hãy bắt đầu sống
Hành Ðộng đi: quay về với chính mình để có một cái
nhìn chín chắn về mọi sự và nhận thức được tất cả
những gì mình phải làm. Dựa trên khả năng bản thân
và điều kiện sống trước mặt, chúng ta hãy biến đời
mình thành một món quà ý nghĩa cho tất cả chúng
sinh. Trong đời sống của một tu sĩ Phật giáo, tôi
phải luôn nhận ra những điều mình có thể làm và
không thể làm. Chẳng hạn như một trong những điều mà
tôi phải học hỏi để thực hiện chính là đời sống giản
dị: giải dị trong cái ăn, giản dị trong trang phục,
trong cách tận dụng và trân trọng những gì người
khác đem cúng dường. Tôi còn phải học cách chào đón
tất cả mọi hạng người, một cách phát triển và nuôi
lớn lý tưởng sống. Nói cho cùng, thì toàn bộ đời tu
của tôi chỉ là một chiếc răng cưa bé xíu của cổ máy
vũ trụ vĩ đại nhưng đó cũng là một đóng góp, vì tôi
đã sống Hành Ðộng.
Trong câu trả lời này về vấn đề xã hội, tôi muốn
đặc biệt nhấn mạnh đến ba chi Thánh Ðạo trong giáo
lý Tứ Ðế là Chánh Ngữ, Chánh Mạng và Chánh Niệm.
Chánh Ngữ và Chánh Mạng ngoài cái giá trị căn bản là
đóng vai trò những nguồn đạo lực trong hành động
giải thoát của bản thân, còn có một giá trị khác nữa
là xây dựng và đóng góp rất nhiều cho tất cả mọi
người. Riêng về Chánh Niệm, ngoài giá trị hàm dưỡng
một đời sống tỉnh thức, còn giúp người Phật tử tránh
được tất cả những thành kiến, định kiến, lập trường,
ý niệm, quan điểm lệch lạc.
Cuộc tu của chúng ta có thể là một hành trình đòi
hỏi rất nhiều thời gian, nhưng điều đó chẳng sao
hết, nếu chúng ta không bỏ cuộc, mỗi giờ khắc sẽ là
từng bước chân trưởng thành, thăng hoa. Chúng ta hãy
học cách vận dụng đúng mức khả năng trí tuệ của mình
để phơi mở và soi rọi một cách khách quan cái nhận
thức về bản thân, gia đình, quê hương xứ sở hoặc lập
trường chính trị của mình. Chỉ với một tí thiên kiến
chủ quan thôi, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình vô
vàn đau khổ. Trong khi đó việc cần thiết của chúng
ta chỉ đơn giản là cảm nghiệm tất cả mọi đau khổ,
bất luận là chúng xảy đến từ phía nào, rồi thấu đáo
nó một cách thông minh.
Phải nói rằng thế giới hôm nay đang trải qua
những tháng ngày khổ nạn nghiêm trọng nhất. Biết bao
người trong số chúng ta nắm được trong tay quá nhiều
quyền hành nhưng chúng ta đã giải quyết được gì
đâu?! Trước mắt chúng ta vẫn còn tồn đọng trăm ngàn
vấn đề nhức nhối. Mà điều đau xót nhất là có mấy ai
hiểu được rằng những vấn đề đó của nhân loại không
thể nào chỉ được giải quyết bằng bạo lực. Mọi chuyện
rắc rối chỉ có thể dàn xếp ổn định bằng một thái độ
chăm sóc nghiêm cẩn, bằng vào sự đóng góp hết mình
của từng người trên hành tinh này.
Hỏi: Xin cho biết con đường tu học hoàn chỉnh
nhất có phải là cần được tuân theo cái trình tự Tự
Giác rồi mới Giác Tha?
Ðáp: - Ðây là cả một vấn đề để chúng ta phải bàn
thảo ở đây. Về mặt lý tuyết, thì vấn đề có vẻ gần
giống như vậy: Quý vị trước hết phải là người tự
giác ngộ rồi sau đó mới có thể tiếp độ người khác.
Chưa giải quyết được chính mình một cách trọn vẹn,
thì ta không thể làm được gì hết.
Sự thật thì không phải như vậy. Cả hai thái độ
sống Tự Giác và Giác Tha luôn đi đôi với nhau. Tôi
đã rút ra được bài học này ngay từ lúc còn sống ở
Thái Lan. Hồi đó, tôi thường quan tâm đến chuyện
giúp đỡ đến những người khác như các vị thầy bạn
trong chùa và xem đó như một niềm vui, một phần lẽ
sống. Thế rồi tôi trở bệnh và thành ra người bất
lực. Tình trạng sức khỏe của tôi lúc đó đã không cho
phép tôi được sống như ý mình muốn nữa. Và tinh thần
phục vụ của tôi cũng từ đó bị suy giảm rõ rệt. Dựa
vào đây, tôi mới hiểu rằng trí tuệ tu học của mình
thật ra vẫn chưa được trang bị một cách kỹ càng. Mọi
sinh hoạt của tôi vào thời điểm đó coi như cứ chất
đầy những thất vọng và chính thái độ thất vọng này
đã có những ảnh hưởng thật sự tệ hại đối với từng
sinh hoạt lớn nhỏ của tôi.
Ðây là lý do tại sao Phật giáo vẫn thường xuyên
nhắc tới một nếp sống thăng bằng và nhấn mạnh cái
giá trị của một thời khóa sinh hoạt tập trung vào
tinh thần ổn định bản thân. Những người Phật tử còn
đang tu học như chúng ta đều rất cần tới những thời
gian sống trong tĩnh lặng qua từng phút từng giây.
Bởi vì chỉ với một nếp sống như vậy, chúng ta mới có
thể nhận ra mình đang nghĩ về cái gì và cái gì là
điều cần phải thực hiện. Có thể nói rằng cái lỗi lầm
nghiêm trọng nhất trong mọi suy nghĩ và hành động
của chúng ta chính là những gì bị tác động bởi khái
niệm về một cái Tôi. Hãy luôn luôn cảm nhận một cách
trung thực mọi biến động của bản thân, nhìn ngắm cẩn
thận những gì vẫn xảy ra quanh mình trong từng lúc
rồi tự đặc mình vào một nếp sống đầy hiểu biết.
Nếu chúng ta chỉ ngồi đó để cố trông chờ cái giây
phút giác ngộ trong khi chẳng chịu làm thêm cái gì
nữa thì tôi xin nói thẳng rằng cuộc nói chuyện của
tôi gởi đến cho quý vị đêm nay hoàn toàn vô nghĩa.
Cho tôi xin lỗi khi phải đưa ra ví dụ này rằng nếu
chúng ta cứ ngồi bất động để chờ đợi từng đàn gia
súc xuất hiện trong trang trại của mình thì chắc có
lẽ quý vị cũng hiểu rằng đó chỉ là một ước mơ hão
huyền. Bởi bất cứ lý tưởng nào, ước mơ hay ý muốn
nào cũng cần phải có một cơ sở hợp lý. Ta không thể
nào đạt được mục đích với cùng lúc quá nhiều những
nghi ngờ: "Tôi đã sẵn sàng để thành tựu được cái ước
muốn đó hay chưa?". Chúng ta luôn thiếu thốn quá
nhiều những chuẩn bị.
Nhưng nói như vậy, cuộc tu không phải hoàn toàn
chỉ gồm những thất vọng và câu tư vấn trên đây cũng
rất có thể là một thiền án tuyệt vời để chúng ta có
thể nhìn thấy chính mình mọi nơi và từng lúc một
cách chính xác theo đúng tinh thần của thiền quán.
Tôi lấy ví dụ như khi chúng ta đang ngồi thiền định
và tâm tư lại hướng vọng về cái chuyện giác ngộ thì
câu tư vấn trên đây vào lúc này quả thật là cần
thiết. Ta hãy ghi nhận nó cho đến khi nó biến mất
thì coi như nội tâm của chúng ta đã có được một sự
bình yên cần thiết. Chẳng riêng gì tư tưởng đó, mà
đối với bất cứ tư tưởng nào cũng thế, có nhìn thấy
được chúng đến và đi như thế nào thì chúng ta mới
thấm thía được cái bản chất vô thường của nội tâm.
Tôi không muốn nhắc tới ở đây bất cứ một vấn đề nào
nằm ngoài ra chuyện đang bàn. Tôi cũng không muốn
các vị phải lưu tâm đợi chờ cái giây phút mà nội tâm
mình không còn bị vướng vít bởi những câu hỏi vớ
vẩn. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều là chúng ta hãy
chú ý đến từng tư tưởng tự vấn và thực hiện những gì
thật sự cần thiết mà khả năng bản thân cho phép.
Chính thái độ bình tĩnh này sẽ giúp ta nuôi lớn sức
mạnh kiên tâm và ổn định hóa tinh thần. Tôi cho rằng
tất cả những gì vừa nói trên đây đều có một ý nghĩa
quan hệ mật thiết với nhau.
Thế còn vấn đề thời gian, chúng ta phải mất nhiều
thời giờ để thanh lọc chính mình và trở thành ông
thánh cao khiết hay không? Chúng ta phải bắt đầu mọi
sự bằng từng công việc nhỏ nhặt nhất. Chúng ta muốn
trở thành Ðức Chúa Kito hay Ðức Phật để cứu thế thì
cũng tốt thôi nhưng vấn đề nằm ở chỗ là chúng ta
phải khởi sự từ đâu chứ? Như đã nói, ngay đến Ðức
Phật, Ngài cũng đã bắt đầu con đường của mình bằng
những cái nhỏ nhặt nhất. Ngài đã từng dạy chúng ta
hãy luôn tự biết lượng sức, phải biết leo lên đỉnh
núi cao từ đáy sâu của vực thẳm. Chúng ta không thể
trong một sớm một chiều mà thành Phật, thành Chúa.
Chúng ta phải biết khởi hành cuộc đi của mình ngay
từ những gì đang có trước mắt, chẳng hạn như một cơn
nhức đầu, sổ mũi. Chân lý chỉ có thể được phát hiện
vào từng phút giây tỉnh thức, từng phút giây chánh
niệm trong mỗi thời khắc hiện tại.
Hỏi: Thế giới sẽ ra sao nếu ai cũng làm đúng lời
Phật dạy? Và theo đại đức chúng ta cần có thái độ
thế nào đối với thế giới khoa học hiện đại, chẳng
hạn như những thay đổi nào đó.
Ðáp: - Ðối với riêng tôi mà nói thì cái việc suy
nghĩ và cảm giác của người Phật tử về thế giới không
quan trọng tí nào hết. Lý do hết sức đơn giản là
toàn bộ giáo lý nhà Phật chỉ nhắm đến một đời sống
Tỉnh Thức. Ngôn ngữ và lý luận chỉ làm rắc rối cuộc
đời thêm thôi. Chẳng hạn như đối với ngay chính căn
phòng này, mỗi người trong số chúng ta ở đây đều có
một nhận xét riêng, chẳng ai giống ai. Kể cả những
gì tôi nói cho quý vị cũng thế, làm sao chúng ta lại
có thể hoàn toàn thống nhất suy nghĩ với nhau được.
Mặc dù, một cách khách quan, tôi vẫn nhận ra rằng
nhân loại chúng ta bây giờ gần như đã có chung nhau
một số quy tắc cơ bản để hệ thống hóa một cách nhất
quán các sự kiện. Chúng ta có thể đặt ra những
chuyên ngành để sắp xếp các sự vật thông qua phương
pháp khoa học và cũng đã bắt đầu hiểu được ít nhiều
những qui luật cấu tạo của không ít sinh vật trong
trời đất. Chúng ta cũng đã có những khả năng quan
trọng để can thiệp vào thiên nhiên: Di chuyển cái
này, sửa đổi cái kia, khoét sâu địa cầu, đưa người
lên trăng, du khảo các thiên thể...nhân loại còn có
khả năng sáng tạo ra thật nhiều thứ. Ngay cả ngôn
ngữ và cớ cấu xã hội cũng nằm trong những phát minh
của loài người.
Với tất cả những cái đó, một tôn giáo giàu tính
thần quyền đến mấy cũng phải nhận rằng nhân loại đã
tiến bộ vượt bực và gần như còn có thể làm chủ thiên
nhiên. Thậm chí có người còn tin rằng đến một lúc
nào đó khoa học sẽ có thể giúp con người đạt được
cái ước mơ trường sanh bất tử để đời đời hưởng lạc.
Tất nhiên đó chỉ là một thứ không tưởng xuất phát từ
quan điểm duy vật cực đoan. Mà đã là cực đoan, quá
khích thì những suy nghĩ đó trước sau cũng vẫn chỉ
là những quan niệm kiến chấp. Có thể nói con người
vẫn không ngừng nuôi lớn những khát vọng sáng tạo ra
trăm nghìn thứ để đoạt quyền tạo hóa dựa trên những
khả năng trí tuệ mà mình đang có được nhưng ta hãy
nhớ rằng những tham vọng đó rất có thể sẽ khiến con
người đánh mất nhân tính. Bởi cho dầu chúng ta có
khôn ngoan đến mấy, văn minh đến bao nhiêu nhưng
trước mắt, chỉ có mỗi một vấn đề thôi mà nhân loại
xem ra có vẻ như không thể thực hiện nổi, đó chính
là mối tương giao giữa người với người: Nhân loại
vẫn từng ngày đánh nhau, chia cắt nhau rồi hiểu lầm
nhau.
Các tôn giáo chín chắn nói chung đều dạy ta hãy
sống hiểu biết và cảm thông, từ vật đến người. Hiểu
biết hay cảm thông ở đây chính là sự phơi mở trái
tim, trải rộng tâm hồn. Khi chúng ta còn bé, đứng
trên một bờ biển nào đó rồi nhìn ra khơi với đôi mắt
mở rộng hồn nhiên. Chúng ta lúc đó hãy còn thơ ngây
lắm, chưa biết tới những kiến thức khoa học về trời
mây sóng nước. Chung quanh và trước mắt chúng ta lúc
đó chỉ là từng cơn gió biển, những đợt sóng vỗ bờ,
cái âm thanh ngàn đời của đại dương... và bây giờ dù
đã là những người lớn, có đôi lúc chúng ta cũng nên
quay lại với cái tâm hồn bé con của mình ngày nào là
mở rộng tâm hồn rồi lắng nghe và nhìn ngắm một cách
đơn giản, thiệt thà, khách quan, trung thực, không
toan tính mưu cầu gì hết. Tôi tin rằng nếu sống lại
được bằng cái tâm thái kỳ diệu đó chúng ta sẽ thấu
suốt trọn vẹn tất cả những gì vẫn bị che kín từ lâu.
Chúng ta sẽ biết ngạc nhiên, thành kính và hài hòa
với thế giới chung quanh. Bên cạnh đó, một khía cạnh
khác của thái độ trên mà chúng ta cần phải triển
khai ở đây, đó chính là lòng yêu thương, trạng thái
"hết mình" với vạn vật một cách trung thực, bất luận
đó là những thương đau hay cái dễ chịu, hạnh phúc.
Sống trong lòng yêu thương, chúng ta tự nhiên trở
thành một bộ phận mật thiết của trời đất, chúng ta
gắn liền với tất cả mọi người, mọi vật một cách trọn
vẹn nhất.
Nhưng cái gì trên đời cũng là tương đối cả, đến
ngay thái độ yêu thương tuyệt vời như vậy không khéo
cũng sẽ trở thành một thứ cực đoan. Chúng ta thử
nghĩ xem mình sẽ hành động như thế nào, kể cả những
gì là cần thiết nhất và hoàn toàn tương ứng với lòng
yêu thương đó, nếu như chúng ta bắt tay vào bằng một
thái độ mù quáng cuồng nhiệt. Như vậy không có một
thứ cực đoan nào là có thể chấp nhận được cả.
Chúng ta không thể nông nổi đánh giá những tiến
bộ khoa học hiện đại là hoàn toàn tốt đẹp hay tuyệt
đối tội lỗi, cho dầu đó là những phát minh về y học
hay những đầu đạn hạt nhân. Bản thân những phát minh
đó không là gì cả, vấn đề nằm ở chỗ những người đã
sử dụng chúng. Do đó, ở đây tôi không hề muốn nhân
danh một cái gì hoặc ai đó để đưa ra cho mọi người
một hướng hành động như là những giáo điều. Tôi chỉ
muốn đề nghị với từng người thái độ phơi mở để mà
sống, để có đủ can đảm và sáng suốt đối diện với tất
cả đau khổ và biết nuôi dưỡng ở tâm hồn mình một khả
năng biết yêu thương. Chỉ với tình thương, chúng ta
mới có thể sống san sẻ. Chúng ta phải cảm thông một
cách đúng mức những nỗi đau của người khác và cố
tránh tối đa những gì có thể gây thương tổn cho tha
nhân. Chúng ta đừng dùng lý luận hay giáo điều để
rao giảng người khác hãy sống như thế này, đừng hành
động như thế kia. Bởi vì theo tôi đó cũng là một
cách sử dụng vũ lực, hay ít nhất cũng là tạo áp lực.
Chính cái tham vọng, hoặc nói nhẹ nhàng hơn, cái
toan tính xếp đặt cho người khác chấp nhận đi theo
con đường của mình một cách khiên cưỡng thì đây cũng
là một kiểu hành động vô minh. Trong khi đó Ðức Phật
đã từng dạy rằng cội nguồn của mọi rắc rối trên cuộc
đời này lại chính là vô minh. Chúng ta hãy ghi nhớ
điều đó để có thể sống tỉnh thức và yêu thương mà
không mắc phải lỗi lầm nào, những cực đoan mà nãy
giờ tôi đã ít nhiều nói tới./.
-ooOoo-
|
Ðại đức Bodhipalo
Hành hương Phật tích
Tiểu sử:
Ðại đức Bodhilàlo (Michael Markham) sinh
năm 1948 tại Nottigham, Anh Quốc. Từ bé, đại
đức đã theo gia đình dời chỗ rất nhiều nơi,
thậm chí đến năm mới vừa tám tuổi, đại đức
đã từng sống tại Canada trong thời gian vỏn
vẹn mười tám tháng. Sau khi rời ghế nhà
trường, đại đức đã đi làm đủ thứ công việc,
nhưng điều thật lạ là công việc nào cũng
khiến đại đức mau buồn chán. Trong cơn bế
tắc của tuổi trẻ, đại đức đã đi du lịch.
Cuộc đi đường dài của đại đức đã đánh một
vòng từ Châu Âu rồi Trung Ðông và sau đó là
Ấn Ðộ và Nepal. Tại Kathmandu, đại đức đã vô
cùng thích thú khi tình cờ đọc được một
quyển sách viết về thiền học. Sau đó trong
thời gian lưu trú tại Benares, nghe tin một
khóa thiền đang được tổ chức tại Bodhi Gaya,
đại đức đã dốc lòng tìm đến tận nơi để tham
dự.
Năm 1972, đại đức về lại Anh Quốc và làm
việc ở một nông trại. Nhưng rồi có một cái
gì đó thật lạ lùng đã thôi thúc đại đức trở
sang Ấn Ðộ năm 1974. Tại Bodhi Gaya (Bồ Ðề
Ðại Tràng), đại đức đã xuất gia sa di rồi
trong chuyến du lịch tiếp đó, đại đức đã
sang Thái Lan thọ giới tỳ kheo tại chùa Pah
Pong. Dường như cơ duyên chưa được chín mùi,
năm 1976 đại đức hoàn tục và trở về Anh
Quốc. Thế rồi chỉ trong một thời gian ngắn,
đời sống cư sĩ đã giúp đại đức nhận xét chín
chắn con đường mình phải đi, đại đức trở về
Thái Lan tái thọ cụ túc giới với Ngài Ajahn
Chah.
Năm 1986, vì lý do sức khỏe, đại đức lại
về Anh, ở dưỡng bệnh tại chùa Chithurst
trong vài tháng để rồi sau đó là chuyến đi
hành hương các Phật tích ở Ấn Ðộ. Hiện nay
đại đức đang sống tại Thái Lan.
Bài viết sau đây là một lá thư của đại
đức gửi từ Ấn Ðộ về chùa Chithurst như một
bài du ký ngắn.
Hành Hương Phật Tích
Tôi rời khỏi Sàvatthi (Xá vệ) vào ngày 4
tháng 12 và phải nói rằng tôi đã hết sức may
mắn khi có dịp đến tận nơi đây để nhìn nhắm
vùng đất thiêng liêng này. Tôi muốn đi bộ từ
Sàvatthi đến Lâm Tỳ Ni (Lumbini) - nơi Bồ
Tát đản sinh, nhưng rất nhiều người đã
khuyên tôi nên bỏ ý định đó. Người ta cho
tôi biết rằng với cách bộ hành như tôi thì
rất có thể sẽ gặp nhiều nguy hiểm như bị
đánh cướp hoặc cũng có thể bị mất mạng, đó
là chưa kể đến cái lạnh chết người của trời
đêm miền Bắc Ấn. Lẽ ra thì tôi vẫn có thể đi
đến những nơi mình muốn bằng rất nhiều
phương tiện xe cộ nhưng như vậy thì đâu còn
gì là thú vị nữa. Tôi muốn mình được đi bộ
len lỏi qua các lùm bụi, tránh được đường
cái quan càng nhiều càng tốt, mà điều này
thì không thể thực hiện được. Mười lăm năm
trước, khi tôi đến đây lần đầu tiên thì các
cánh đồng xung quanh Sàvatthi coi như tiêu
điều, xơ xác suốt mấy tháng mùa đông. Bây
giờ quay lại thì dân chúng địa phương coi
như đã tận dụng từng tấc đất. Họ trồng trọt
đủ thứ: Lúa đông mạch, mía đường cùng các
thứ rau đậu. Ở Nepal bây giờ người ta còn
trồng lúa nữa.
Thế rồi, bất chấp những ngăn cản của mọi
người, tôi cố tin vào chính mình, vào những
may mắn bất ngờ nhất để quyết định đi bộ về
Lumbini. Ðến Bulrampur, tôi đã thử đi khất
thực. Dù không đủ ăn nhưng tôi cũng tạm lây
lất qua ngày. Có một vấn đề cần được giải
quyết lúc này là tôi muốn giải thích cho mọi
người biết rằng trong lúc khất thực, tôi
không thể nhận tiền bạc cùng các thức ăn
tươi sống. Tôi cũng ngại việc người ta hiểu
lầm tôi là một người da trắng có lối sống
hippi quá khích. Tôi đã nhờ một vị sư viết
dùm tôi một tấm bản nhỏ (bằng tiếng Hindi)
để đem theo bên người, nội dung tấm bản ghi:
"Tôi là một nhà sư Phật giáo đang trên đường
hành hương Phật tích. Tôi không nhận tiền
của ai, chỉ sống bằng đồ ăn khất thực, mỗi
ngày chỉ dùng một bữa trưa thôi. Tôi xin cầu
nguyện cho những người hảo tâm". Với tấm
bảng này, mọi sự trên đường đi xem ra có vẻ
dễ dàng hơn. Trong giờ khất thực, tôi đến
đứng trước cửa từng nhà khoảng nửa phút, nếu
gia chủ không nói gì hết tôi lại đi sang nhà
khác. Còn như người ta hỏi tôi muốn gì thì
tôi đưa tấm bản kia cho họ đọc. Có thể nói
hầu hết mọi người đều đối xử rất tốt với
tôi. Nhiều lúc, tôi đã đi qua rồi mà người
ta vẫn cứ chạy theo để đặt bát. Những lúc
tôi đi trên đường như vậy, thường có một đám
trẻ con kéo rồng rắn đi theo phía sau tôi
như một cái đuôi. Ðồ ăn khất thực thì bất
chừng lắm, có lúc tôi nhận được rất nhiều
thức ăn sang trọng rồi có khi đi cả buổi mà
trong bát chỉ có vài miếng bánh nhỏ.
Tôi đã ngủ qua đêm ở đủ chỗ: Có khi là
trên một lối mòn có nhiều lùm bụi bên cạnh
một dòng suối (ở những nơi tôi đi qua có
nhiều suối lắm, muốn tắm rửa lúc nào cũng
được), có những đêm tôi ngủ trên một đống
rơm. Dân làng trong vùng muốn mời tôi về nhà
họ để nghỉ, nhưng ở đó có quá nhiều phụ nữ
và trẻ con nên tôi vẫn thích ngủ ở ngoài
làng trên những đống rơm dưới bóng che của
mấy cây xoài lớn. Ðó là những đêm tôi được
ấm áp nhất. Còn nếu phải ngủ ngoài trời thì
lạnh lắm, có nhiều đêm tôi không thể nào ngủ
nổi. Những lúc đó tôi cứ nhớ lại thời gian
mình còn sống ở Thái Lan, tận dụng triệt để
bộ tam y rồi suốt đêm cứ ngồi khép chặt mình
lại để giữ hơi ấm. Một đêm kia tôi tình cờ
tìm thấy một gian lều cỏ đã mục nát nằm cạnh
đường đi. Vào sống trong đó thì xem ra cũng
ấm cúng nhưng đến ban ngày thì nóng nực
không chịu nổi.
Tôi tiếc là mình đã không nói được ngôn
ngữ bản xứ. Tôi nghĩ mọi việc sẽ ổn hơn
nhiều nếu tôi có thể trao đổi được chút gì
đó với mọi người chung quanh tôi. Tôi đã
quyết định vạch ra từng trạm dừng chân cho
cuộc hành hương của mình là sẽ từ Kusinàrà
đi về Baranasi rồi sau đó là Bồ Ðề Ðạo
Tràng. Dĩ nhiên lời nhắc nhở của những người
tôi gặp trên đường đi vẫn văng vẳng bên tai
tôi. Người ta bảo tôi hãy đề phòng những bất
trắc rất có thể sẽ xảy ra nhưng thật kỳ lạ
tôi cứ yên tâm với suy nghĩ đơn giản là nếu
duyên nghiệp của tôi đã là như vậy thì dù có
ở đâu tôi vẫn có thể bị tai nạn: Tôi có thể
bị cán chết bởi một chiếc taxi ở thành phố
Luân Ðôn hoặc bị ngã xuống dưới tay những
tên cướp cạn.
Niềm tự tin của tôi còn được củng cố hơn
nữa khi tôi tự kiểm tra đời sống phạm hạnh
của mình. Tôi cứ tin tưởng mãnh liệt rằng
chính đời sống giới luật trong sạch của mình
là một phép Ba-la-mật hùng mạnh. Trong những
ngày tháng hành hương này tôi đã thọ trì
giới hạnh một cách trong sạch cho đến cả vấn
đề ăn uống và tiền bạc. Tôi không hề giữ lại
trong người mình hai thứ đó. Bởi nếu tôi làm
vậy thì tôi không thể nào ôm bát đi khất
thực bằng một tâm hồn trong sáng và bình yên
được. Có rất nhiều người đã cố thuyết phục
tôi nên biết giữ lại chút gì đó cho mình
phòng khi bất trắc nhưng tôi tự hiểu rằng
nếu tôi làm vậy thì rất có thể tôi sẽ không
nhận được những gì cao đẹp mà người ta vẫn
dành cho một vị sa môn, mà đặc biệt là trong
lúc tôi lại đang có một cuộc hành hương tìm
về Phật tích.
Tôi có ghé ngang Lumbini và dừng lại ở Ca
Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) một ngày nhưng ở đây
không có gì để chiêm bái cả. Kapilavatthu
không rộng bằng Sàvatthi, đã vậy còn bị đào
xới bừa bãi. Tuy vậy từ đây chúng ta có thể
nhìn thẳng lên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn trong
khi ở Sàvatthi thì không thể có được cơ hội
này. Sau một ngày ở Kapilavatthu, ngày hôm
sau tôi đã thả bộ ngắm nhìn cảnh chiều muộn
ở đây, dãy Trường Sơn Hy Mã vẫn sừng sững ở
đó. Tôi đã hít thở thật mạnh như để cố nuốt
hết vào phổi mình cái không khí linh thiêng
này. Từng cánh đồng xanh ngát với những chồm
cây nằm rải rác xa xa, từng đóa hoa làm tím
thẩm những chân đồi và bên kia bầu trời lồng
lộng những đỉnh núi phủ tuyết chọc thẳng lên
với trời xanh... Phải nói rằng phong cảnh ở
Kapilavatthu tuyệt vời quá: Hoành tráng,
hùng vĩ mà vẫn vô cùng thơ mộng. Thời điểm
tốt nhất để nhìn ngắm cảnh quang ở đây phải
là buổi sáng sớm, trước tám giờ, khi nắng
bắt đầu lên cao, tan tuyết đi và chảy xuống
lấp lánh.
Hồi còn ở Anh Quốc tôi vẫn cứ do dự khi
nghĩ tới một chuyến hành hương về Ấn Ðộ. Rồi
trong cả lần đầu tiên đặt chân lên xứ sở này
tôi vẫn không sao bỏ được những do dự đó. Có
lúc tôi cứ nghĩ mình là một người ngớ ngẩn
khi cứ mãi bị ám ảnh bởi miền đất có quá
nhiều cái khó chịu này. Không ít lần tôi đã
nghĩ rằng cái ước muốn hành hương của tôi
chỉ là một phút bồng bột nhằm để thỏa mãn
cái tính khí phiêu bạt của tuổi trẻ chính
mình. Nhưng đến bây giờ thì tôi phải nhận
rằng mình đã quá may mắn khi thực hiện được
một chuyến đi như thế. Tôi đã cảm thấy vô
cùng hạnh phúc khi xem đây là một cơ hội khó
được của đời tu. Tôi hy vọng đây cũng sẽ có
thêm nhiều vị sư khác thực hiện được một
cuộc hành hương như vậy.
Tôi xin chúc sức khỏe từng huynh đệ cùng
các Phật tử ở Chithurst. Xin mọi người đừng
cười lá thư này của tôi, vì tôi chưa từng
viết những lá thư kiểu này bao giờ.
Với tất cả thân ái,
Tỳ kheo Bodhipàlo.
-ooOoo-
|
Ðại đức
Amaro
Hãy tìm
một lý tưởng sống
Tiểu sử:
Ðại đức Amaro (Jeremy Horner) sinh
năm 1955 tại Kent, Anh Quốc. Từng theo học Tâm lý
học và sinh lý học ở các trường đại học Bedford rồi
đại học Luân Ðôn. Ðời sống tinh thần của đại đức
được bắt đầu định hướng từ khi đọc qua các tác phẩm
của Rudolph Steiner. Sau khi tốt nghiệp đại học, nhờ
một người bạn giúp cho một việc làm trên máy bay tải
hàng từ Anh sang Mã Lai, đại đức coi như đã có dịp
du lịch ở Châu Á.
Theo lời mời của một số người quen
trên các chuyến bay, đại đức đã đến viếng miền Ðông
Bắc Thái Lan. Lần đó, trong khi tìm một chỗ trọ để ở
lại vài đêm trước khi tiếp tục bay sang Nhật Bản,
đại đức đã được nghe kể về chùa Nanachat cùng các vị
sư người da trắng ở đây. Sau khi viếng thăm chùa,
đại đức đã quyết định ở lại làm giới tử trong bốn
tháng rồi tu sa di (năm 1978). Năm sau, đại đức thọ
cụ túc giới với Ngài Ajahn Chah.
Tu xong, đại đức ở lại Thái Lan
trong hai năm, rồi sau đó trở về Anh Quốc, trước là
để gặp gia đình và sau đó là phụ giúp Ngài Sumedho
xây dựng chùa Chithurst. Trong những ngày tháng có
mặt tại Luân Ðôn, đại đức rất muốn có dịp đến gặp
người cô ruột của mình mà mình chưa hề thấy mặt, đó
là cô I.B. Horner. Cô là một học giả, dịch giả kinh
Pàli lừng danh đồng thời cũng là chủ tịch hội Nghiên
Cứu Tam Tạng Pàli Luân Ðôn (Pàli Text Society).
Nhưng thật đáng buồn là cô Horner đã qua đời trước
khi hai cô cháu gặp gỡ nhau.
Năm 1983, Ngài Sumedho đề nghị đại
đức Amaro đến lưu trú và hoằng pháp tại chùa Harnham
Vihàra và đại đức đã đồng ý. Ðại đức Amaro có viết
một quyển hồi ký kể lại cuộc bộ hành Ðầu Ðà tám trăm
ba mươi dặm của mình ở miền Bắc Thái Lan. Quyển sách
được thực hiện từ năm 1984.
Bài viết sau đây là một thời pháp
của đại đức Amaro cho các Phật tử cư sĩ tại Trung
Tâm Phật Giáo Amaravati (Anh Quốc) năm 1986.
Hãy Tìm
Một Lý Tưởng Sống.
Việc chúng ta cùng góp mặt trong
thiền khóa này có một ý nghĩa rất lớn mà trước hết
tôi muốn nói về cái đạo tình pháp hữu, pháp lữ.
Chúng ta đang có mặt chung nhau trên cùng một hành
trình, mặc dù xét trên hình thức, giữa chúng ta vẫn
có những khác biệt quá rõ ràng: tôi đang nhìn thấy
trước mặt tôi các ông và các bà, các cô với các cậu,
chênh lệch nhau trên nhiều thứ nhưng tất cả đều
hướng về một đích đến. Mục đích đó chúng ta mỗi
người tự biết lấy và có thể gọi tên nó ra sao cũng
được. Ðiều quan trọng là chúng ta cùng hiểu rằng
từng người ở đây đang nhắm tới một đời sống nội tâm
thật sự có ý nghĩa.
Và như quí vị cũng đã hiểu rằng mọi
công phu tu tập của chúng ta chỉ có một ý nghĩa duy
nhất là nhắm để thực hiện một nếp sống trí tuệ.
Chúng ta không thể nhắm mắt mù quáng buông mình vào
từng hình thức tôn giáo với một lý tưởng mơ hồ viễn
vông, mà thay vào đó, với trí tuệ của một người Phật
tử chín chắn, chúng ta phải biết phơi mở tất cả
những gì vẫn bị đóng kín đối với chính mình và vạn
vật chung quanh từ bấy lâu nay. Chúng ta phải xót xa
để cùng nhìn nhận với nhau rằng đã có đến hàng triệu
xác người đẫm máu ngã xuống cho những tên gọi khác
nhau về cái gọi là cứu cánh giải thoát của các tôn
giáo: Thiên đàng, Sự hợp nhất với Phạm Thiên, Thiên
Giới của Thánh Allah, Níp Bàn... Ta có thể nói rằng
hễ loài người còn tồn tại trên mặt đất này thì vẫn
còn tiếp tục tồn tại những biểu tượng mang ý nghĩa
hoài vọng về một cứu cánh bình yên vĩnh hằng và trọn
vẹn nào đó. Rồi cũng từ đây, nhân loại lại tiếp tục
tự biến mình thành những con thiêu thân lao vào ngọn
lửa chói ngời của những biểu tượng đó. Như vậy nếu
chúng ta có thể vượt thoát được khỏi những ám ảnh
của biểu tượng, chấm dứt thái độ trẻ con đối với các
hấp lực của ngôn từ và thanh thản bước đi trên con
đường tự tu tự chứng, tôi tin rằng chúng ta rồi sẽ
đạt đến mục đích mà mình vẫn mong mỏi. Một mục đích
không cần tới những tên gọi...
Các Tôn giáo đã hứa hẹn cho người ta
quá nhiều cứu cánh. Nhân loại đã thực sự bối rối
trước trăm ngàn thứ tín ngưỡng: Thiên Chúa Giáo, Ấn
Giáo, Do Thái Giáo... Ðiều đó gần như đã là một tại
nạn không chỉ riêng cho một dân tộc Á Châu hay Tây
Phương nào hết. Chính niềm tin dại khờ của mỗi người
đã làm cho trí tuệ nhân loại bị tật nguyền, nhận
thức của chúng ta bị lệch lạc nghiêm trọng. Chúng ta
cứ bị kiểu dáng của chiếc bình ám ảnh mà quên đi bản
chất thật sự của phần nước đựng chứa trong đó. Dầu
có nằm ở đâu, nước vẫn không thay đổi thuộc tính,
nhưng điều đau xót là chính những chiếc bình hay cái
lọ chứa nó đã khiến người ta hiểu lầm rằng nước hình
tròn, hình vuông, hình bầu dục...
Như vậy, điều vô cùng quan trọng là
chúng ta phải tự biết quyết định con đường tu tập
của mình một cách hợp lý. Ðức Phật đã rất cẩn thận
khi nói pháp bởi đa số chúng sinh đều có khuynh
hướng lệch lạc. Tư tưởng của chúng ta luôn loạn động
và thường có thói quen đi tìm cái gì đó để nắm bắt,
bất kể đó là những thứ có nguy cơ giới hạn bản thân.
Chúng ta thích rong ruổi phiêu bồng, thích làm những
cuộc khám phá mang tính thời thượng, thích nói
chuyện ngoài lề để khỏi phải nhọc sức và cũng để tự
vuốt ve cái hiểu biết nông cạn của mình. Ðức Phật
nói pháp với ý nghĩa là kêu gọi chúng ta lên đường,
thực hiện một cuộc dấn thân thật sự mãnh liệt chứ
không phải cung cấp cho ta những đề tài nói chuyện
và nghĩ ngợi.
Nói ra mà buồn, đã bao năm qua rồi
các giáo thuyết trên thế giới xem ra chỉ có thể đem
lại cho nhân loại một số lượng lớn về những ý niệm
Siêu Hình và Triết Lý, những hình thức nghi lễ rườm
rà và vô nghĩa về chuyện ăn uống, hôn lễ, ma chay.
Rồi bên cạnh đó, có khá hơn một chút thì cũng chỉ
hướng dẫn ta cách Nói Chuyện, Mạn Ðàm đôi chút về
cái gọi là đời sống nội tâm cùng các sinh phong nông
cạn nào đó. Thật ra chúng ta vẫn có thể phá vỡ các
biểu tượng hoặc khéo tận dụng chúng để tìm ra những
chân lý đơn giản nhất, nhưng chúng ta đâu có chịu
làm vậy, chúng ta đã tự nguyện qui hàng và thờ phụng
chúng. Người ta đã tìm tòi để cố sức khám phá ra mọi
sự để rồi giờ cuối thì các biểu tượng, những kết quả
của công cuộc khám phá nông nổi lại thành ra tất cả
những gì là cứu cánh, mục đích. Người ta đã quên đi
một vấn đề sinh tử là thực ra mình chỉ đang có mặt
trên chặng đường đầu tiên của cuộc hành trình. Nói
gọn lại, ngay từ bây giờ, chúng ta phải biết bỏ đi
cái thái độ sùng thượng thơ ngây đối với những biểu
tượng để không tiếp tục theo đuổi chúng nữa và tự
vạch ra cho mình một con đường đúng đắn nhất.
Ðể hạn chế tối đa những gì không
thật sự cần thiết, Ðức Phật luôn có một cách nói
pháp cực kỳ đơn giản. Giáo lý của Ngài từ đó đã
thành ra những lời dạy không thể thêm bớt gì được
nữa. Lần đó, cùng với chư tăng đệ tử đi ngang qua
một cánh rừng, Ðức Phật đã nhặt lấy một nắm lá rồi
hỏi các vị tỳ kheo chung quanh:
- Theo các người thì nắm lá trong
tay ta với toàn bộ số lá cây còn lại trong khu rừng
này phần nào nhiều hơn?
- Bạch Thế Tôn nắm lá trong tay Ngài
thật quá ít, số lá còn lại trong rừng thì phải nói
là vô lượng.
Nghe câu trả lời như vậy, Ðức Phật
nói tiếp:
- Cũng giống như vậy, này các tỳ
kheo, những gì ta hiểu biết cũng có thể tạm đem so
sánh với tất cả lá cây trong khu rừng này, những gì
ta thuyết giảng cho các người thì cũng ít ỏi như số
lá trên tay ta.
Chư Phật luôn thông suốt một cách
tận tường về mọi qui luật sinh hóa, tuần hoàn của
tất cả vũ trụ, thế nhưng lời dạy của các Ngài chỉ
đơn giản nhắm vào con đường giải thoát. Ðức Phật
cũng y cứ trên nguyên tắc này mà hạn chế tối đa
những nhắc nhở về các vấn đề siêu hình. Ðọc kỹ kinh
sách, ta sẽ thấy Ðức Phật đã cố tránh không đả động
đến vấn đề đó. Ngài luôn im lặng trước những câu hỏi
đại loại như: Thế nào là khởi nguyên tuyệt đối của
các hiện hữu? Ðiều gì sẽ xảy đến cho vị A La Hán sau
khi vị này viên tịch?... Sở dĩ Ðức Phật có thái độ
như vậy là vì ít nhất hai lý do: Trước hết, đó là
những câu hỏi không thật sự quan trọng, câu trả lời
về chúng không thể dẫn đến giải thoát, và lý do thứ
hai là Ðức Phật muốn tránh cho người hỏi những ngộ
nhận về các vấn đề mà thật ra họ không thể hiểu
được. Có lần một người kia đã yêu cầu Ðức Phật diễn
tả cho nghe về trạng thái của Níp Bàn. Ðức Phật trả
lời bằng một câu hỏi ngược lại:
- Nếu thổi tắt một ngọn lửa rồi hỏi
ngươi rằng ngọn lửa đã đi về phương hướng nào, thì
người sẽ trả lời ra sao?
Nghe hỏi vậy, người kia phản ứng
thật nhanh:
- Thưa Ngài, đó là một câu hỏi thiếu
thông minh. Bởi vì đối với ngọn lửa đã tắt thì các
phương hướng đâu còn là vấn đề nữa.
- Ðúng vậy, câu hỏi của ngươi cũng
là một câu hỏi tương tự câu hỏi ngớ ngẩn khi nãy.
Bất cứ câu trả lời nào của Ta cho ngươi về vấn đề
này chỉ làm cho ngươi thêm bối rối ngộ nhận thôi.
Tôi đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần,
Ðức Phật chỉ dạy cho người khác những gì thật sự có
ý nghĩa đối với lý tưởng nhận thức chân lý giải
thoát. Nhưng khi phải nói về Níp Bàn, Ðức Phật
thường dùng những hình dung từ đơn giản nhất: Ðó là
một trạng thái hết sức kỳ diệu, sâu kín mà an lành,
ly duyên khởi, không nhân tác tạo. Ðó quả là những
hình dung từ tuyệt vời được sử dụng một cách cẩn
thận qua trình độ lập ngôn thượng thừa của vị Chánh
Ðẳng Chánh Giác, chỉ dừng lại một cách chính xác
trong ý nghĩa gợi ý cho một lời giải thích ở mức
đúng, đủ và cần thiết mà không hề để lại cho người
nghe chút gì đó để họ có thể dưỡng nuôi cái ý tưởng
ôm ấp, chấp thủ về cứu cánh Níp Bàn. Lời giải thích
đó của Ðức Phật rõ ràng là không xác định Níp bàn là
cái gì đó cho người ta lý tưởng hóa nó bằng một ý
niệm vĩnh hằng nhưng cũng thông qua đó, Ðức Phật đã
kín đáo giải thích Níp Bàn là một giá trị thực tại
mà người ta có thể khám phá và nhận thức.
Ðiểm tinh yếu của tất cả pháp môn
thiền định, trong điều kiện sinh tồn của nhân loại
chúng ta, là học được cách gởi cái nhìn của mình qua
bờ kia của thế giới cảm giác, học được cách sống
vượt thoát mọi khái niệm máy móc. Ðể thực hiện được
công phu này thì chúng ta phải biết nâng cao tầm
nhìn của mình lên khỏi thế giới ảo tưởng để thấy mọi
sự trong đời sống chỉ là những phiêu vật trôi ngang
tư tưởng bản thân. Thay vì nhìn thấy một người đang
bước đi, ta hãy thử đơn giản xem đó là một ảo ảnh
đang đi qua dòng ý thức của mình. Ngay trước mắt
chúng ta bây giờ là quang cảnh một ngọn đồi của
thiền viện Amaravati. Ðó là một hình ảnh mà ta có
thể ghi nhận được. Rồi âm thanh của tôi trong thời
giảng này, từng cảm giác đang xảy đến trong tư thế
ngồi của quí vị... Chúng ta hãy lần lượt xem chúng
như là những dòng nước đang trôi đi qua tư tưởng của
mình. Vừa rồi, Ngài Sumedho vừa thực hiện một chuyến
công tác Phật sự đường dài qua nhiều quốc gia và
Ngài có ghé tới đây để viếng thăm Amaravati. Trước
lúc chia tay với tôi, Ngài có nói rằng mình đã quyết
định không đi thêm bất cứ nơi nào trên thế giới nữa,
mà ngược lại sẽ để cho toàn bộ thế giới trôi qua
trong nội tâm mình. Ngài còn nói với tôi một câu
khác cũng hết sức sâu sắc: "Sự dừng chân đôi khi có
nhiều thú vị lắm, nó đem lại cho ta một sự an lành
không tả nổi. Mình có đi đến bao nhiêu chỗ, gặp gỡ
bao nhiêu người, thực hiện bao nhiêu công việc nhưng
phải nói rằng đối với một người chỉ biết tìm tới
những trời xa xứ lạ, cái cảm giác của sự xê dịch
thật ra là cả một sự trống vắng. Mình có mặt ở mọi
nơi nhưng thật ra mình đã tự vắng mặt đối với chính
mình. Nếu ta khéo sống, thì mỗi nơi chốn đều là một
thế giới tĩnh lặng hết sức tuyệt vời".
Nếu chúng ta đưa được đời sống của
mình lên khỏi giới hạn của trình độ thuần cảm giác
để không còn nhìn thấy vạn vật là những đơn thể bất
biến, chúng ta sẽ nhận rõ được thái độ đón nhận trần
cảnh của mình bấy lâu nay chỉ là những ảo giác kiến
chấp và từ đó ta sống trong sự tỉnh thức thật sự về
mọi hiện hữu - của bản thân và tất cả ngoại giới.
Ðây chính là con đường dẫn tới cứu cánh giải thoát,
tự do, một con đường vượt lên trên cả đôi bờ sinh
tử.
Hồi tháng giêng năm nay (1986) có
một người đàn bà mắc phải chứng ung thư và đang ở
vào thời kỳ cuối cùng, bà đến Amaravati này với hy
vọng được chết tại đây như một nữ tu chính thức. Lúc
đó trung tâm Amaravati này cũng đang tổ chức một
thiền khóa và phải nói rằng chúng tôi đã nhờ người
đàn bà đó mà có cơ hội thật tốt để triển khai án xứ
về cái chết. Vào một buổi chiều trong khi đang đi
kinh hành, tôi đã bất chợt thấm thía một cách tận
tường về cái chết rằng nếu như người ta vẫn xem đời
sống của mình là một chuỗi dài ghép nối của những ảo
tưởng, với một nội tâm luôn tỉnh thức, thì có lẽ cái
chết, hay nói cụ thể hơn là giây phút lìa đời, sẽ
không làm cho nội tâm của người ta bị tan nát, đổ
vỡ, suy sụp, kiệt quệ. Chiếc hình hài này chỉ là một
đối tượng ảo ảnh của tâm thức, nếu trong giây phút
hấp hối mà người ta vẫn tiếp tục tỉnh thức để nhìn
ngắm nó thì chắc chắn người ta sẽ có đủ can đảm đồng
hóa cái thân sống với một xác chết. Bởi thật ra cái
nào cũng là đối tượng của ý thức. Là những người
Phật tử, chúng ta không cần thiết phải đi tìm cái
cho nội tâm mình nắm bắt, không cần thiết nó sẽ đi
về đâu, thuộc về ai... Ðó là những vấn đề hoàn toàn
vô nghĩa.
Thực hiện trọn vẹn đời sống với một
nội tâm như vậy coi như ta đã đứng bên ngoài vấn đề
sinh tử, sống một cách hiểu biết và là một con người
giác ngộ. Chúng ta hãy nhìn ngắm một dòng tư tưởng
xảy đến trong nội tâm mình từ lúc nó xuất hiện, tồn
tại rồi qua đi. Chịu khó một chút, ta sẽ thấy rằng
cái sống và sự chết của tấm thân này tuy vẫn được
xem là một sự kiện quan trọng nhưng thật ra, về cơ
bản thì không có sự khác biệt nào với tình trạng
xuất hiện rồi biến mất của một dòng tư tưởng. Như
vậy, ý nghĩa của mọi công phu thiền định là phát
triển sự hiểu biết về từng bước đến rồi đi, có rồi
không của vạn sự vạn vật. Cái việc nhìn ngắm vòng
tuần hoàn đó kỳ diệu lắm, cái nhìn của ta càng thuần
thục thì sự tồn tại của từng thứ càng trở nên sống
động và thú vị hơn nhiều. Ta sẽ tìm thấy được niềm
hứng thú ngay trong chính bản thân chúng, trong sự
sinh diệt không ngừng của mọi sự kiện. Và sự cảm
nghiệm này chỉ có riêng người thực chứng mới thấm
thía được. Chúng ta lúc này tự nhiên không cần thiết
phải tìm câu trả lời cho những câu hỏi: "Tôi từ đâu
đến và sẽ đi về đâu?" Thân phận của chúng ta đã quá
rõ ràng và chúng ta lúc này chỉ còn có mỗi một việc
duy nhất là nhận biết mọi sự xuất hiện rồi biến mất
ra sao.
Tự đào luyện mình bằng nếp sống hiểu
biết như vậy, sự hiểu biết về cội nguồn và điểm chấm
dứt của mọi thứ, lòng sợ hãi từ sự vô minh sẽ được
giải quyết, cái chết chỉ đáng sợ khi ta thiếu hiểu
biết tức bị ám ảnh bởi vô minh, mà người càng hiểu
biết thì càng hạn chế vô minh, càng can đảm trước
cái chết. Khi ta đã có được một khả năng nhận thức
chín chắn thì không có gì có thể khiến ta sợ hãi, kể
cả cái chết, nhưng ta cũng phải biết thêm rằng thế
nào là sự hoán chuyển sâu sắc đến mức những sợ hãi
được thế chỗ bằng sự bình tâm chứ? Vấn đề thật đơn
giản, khi ta hiểu được mọi sự trước sau đều chỉ xảy
ra trong ý thức của chính mình, ta đánh giá nó ra
sao thì ta cảm nhận nó như vậy, kể cả sự sợ hãi cũng
thế. Khi ta thấy đó là điều đáng sợ thì vấn đề sẽ
bắt đầu nghiêm trọng hơn. Ngược lại, khi ta đọc được
từng dòng tư tưởng của mình với những gì xảy ra qua
đó thì mọi sự cố lập tức trở nên đơn giản.
Con đường dẫn đến thái độ sống điềm
tĩnh này luôn đòi hỏi ở chúng ta thái độ vô phân
biệt trước mọi sự bằng cách chào đón tất cả những gì
mà mình cảm nhận được. Nhưng các vị cũng thấy đó,
đối với những niềm vui, những hạnh phúc thì chuyện
này rất dễ thực hiện. Còn đối với những cái khó
chịu, đau khổ thì vấn đề xem ra không dễ dàng tí
nào. Rồi chúng ta còn phải đối diện với chính mình
nữa: Chúng ta phải đón chào tất cả những phiền não
từ lòng kiêu ngạo, ham muốn cho đến sự thất vọng...
Phải nói đây là một công phu hết sức khó khăn.
Tôi nhớ có lần, trong một cuộc trao
đổi với Ngài Sumedho về pháp môn Từ Tâm, tôi đã thú
nhận là mình gần như đã bất lực trước những đối
tượng nông nổi, phiền phức. Ðại đức Sumedho đã trả
lời cho tôi:
- Sư nói đúng, nhưng sư thử kiểm tra
lại xem những khái niệm và âm thanh về các từ ngữ
"nông nổi, ngu xuẩn, trẻ con, phiền phức" có làm cho
sư được dễ chịu như khái niệm và âm thanh của danh
từ Mettà hay không? Chúng có giúp sư đón nhận đời
sống một cách hết mình hay không? Chúng có giúp sư
nhận diện được từng cảm nghiệm của mình hay không?
Tôi vẫn dùng những câu tự vấn này để tu tập Từ Tâm.
Sư hãy thử đi, hãy thử đón nhận tất cả một cách chân
thành và trân trọng.
Kể từ khi áp dụng lời khuyên của đại
đức Sumedho, tôi mới nhận ra rằng từ trước tới giờ
mình đã phải mất mát quá nhiều thời gian để giải
quyết những vấn đề nội tâm. Chỉ riêng những phiền
não ồn ào như ham muốn, sợ hãi hay bất mãn thôi, tôi
cũng đã phải vật lộn hết sức vất vả. Còn các cảm
giác tinh vi nhỏ nhiệm khác thì gần như tôi không
còn đủ sức đá động đến. Vậy mà từ khi có bài học
mới, bài học về thái độ chào đón tất cả những phiền
lụy, thì tự nội tâm tôi như có thêm một nguồn sinh
lực thật kỳ lạ đến mức cứ làm tôi phải ngạc nhiên.
Tôi đã nhận ra được rất nhiều những vấn đề quan
trọng trong cuộc đời mình, những lý tưởng và hoài
vọng của quá khứ cùng hướng đi cho tương lai. Tất cả
chỉ là từng dòng chảy phù du...
Cũng với kinh nghiệm đó, tôi đã để ý
thấy được rằng cứ mỗi lần tôi có thái độ đối kháng,
trốn chạy, phủ nhận bất cứ một thứ gì thì cái đó lập
tức biến thành một nỗi ám ảnh cho tôi. Từ một thứ
bản chất hết sức bình thường nhưng khi đi qua sự
đánh giá của nội tâm tôi thì cái gì cũng có vẻ là
nguy hiểm đủ để uy hiếp và nhiễu động tôi cả và bây
giờ thì tôi mới hiểu rằng đó là sự hoàn thành của
một kiến chấp về cái Tôi, Của Tôi. Thế rồi từ bài
học "đón chào mọi thứ" tôi đã thấy rõ rằng với thái
độ tiếp nhận thực tại như vậy, không có gì để làm
tôi phải sợ hãi nữa. Bởi đơn giản là tôi đã hiểu
được mọi sự không thuộc về một Bản Ngã nào, cũng
không đi từ một bản ngã nào hết. Tứ đó , mọi cái từ
ý thức nhận biết cho đến bản chất của mọi sự được ý
thức nhận biết- đều được ghi nhận trong một tinh
thần giải thoát. Ðến mức này, thì cái hình thù của
chiếc lọ đựng nước đã không còn quan trọng nữa,
chính lượng nước được chứa trong đó mới là vấn đề.
Ta đã hiểu được nước là cái gì thì dầu chiếc bình
kia có hình dáng ra sao, ta cũng không thơ ngây nhìn
vào nó để bảo nước là tròn hay vuông nữa. Chúng ta
hãy học cách bỏ đi những hình thức, những khái niệm
khuôn sáo để chỉ giữ lại trong tâm hồn mình cái gì
là Sự Thật mà thôi.
Bằng một thái độ sống đón nhận trọn
vẹn như vậy, coi như chúng ta đang từng phút hiện
hữu trong sự hiểu biết và tỉnh thức về những gì đang
xảy đến với nội tâm mình. Tinh thần Sống đó đã được
thể hiện qua những bức ảnh Phật mà chúng ta vẫn
thường được nhìn thấy: Ngài tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ
Ðề với hào quang tỏa sáng khắp châu thân với một
phong thái hết sức tĩnh lặng và thấu suốt. Rồi bên
cạnh Ngài, ta lại còn thấy thêm những hình ảnh đáng
sợ khác như các binh tướng có hình thù kỳ quái,
thuộc hạ của Ác ma. Chắc chắn chúng ta cũng biết
rằng đó là bức tranh vẽ lại câu chuyện Phật cảm
thắng ma trước khi Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta trở thành vị
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bức tranh đó ngoài ý nghĩa
lịch sử, còn có thêm ý nghĩa khác sâu sắc hơn nhiều,
mà chỉ cần nhìn kỹ lại bức tranh ta cũng sẽ thấy
ngay: Những bông hoa, châu báu, những thứ vũ khí bén
nhọn cùng trăm ngàn yêu quái từ trên trời cùng lúc
xuất hiện quanh Ngài, tất cả được tượng trưng cho
những thử thách và cám dỗ của nội tâm người hành giả
đang trên đường tìm đạo. Tất cả chỉ là ảo ảnh, không
có gì để bám víu hoặc sợ hãi và nói vậy có nghĩa là
chúng ta cũng đừng để bất cứ ảo ảnh nào làm chi phối
nội tâm mình.
Vậy thì trong mắt chúng ta bây giờ
tất cả mọi thực tại dù có hiển hiện trong bất cứ
hình thức nào, tình trạng nào cũng chỉ đều là những
biểu tượng. Ðối với một người tu học chín chắn, ý
nghĩa tinh thần về một Ðức Phật còn quan trọng hơn
cả hình ảnh của Ðức Phật Cồ Ðàm lịch sử, ý nghĩa của
giáo pháp còn quan trong hơn tất cả kinh điển văn
tự. Ðức Phật trong lòng chúng ta lúc này là tất cả
những gì Tỉnh Thức, Hiểu Biết và Ánh Sáng. Bởi nói
một cách rốt ráo thì đó chính là tất cả những gì đã
xây dựng nên một Ðức Phật và ngay trong đêm thành
đạo, Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta đã bằng vào những giá trị này
để lột xác.
Chúng ta có thể nói rằng Ma vương
không chỉ có một lực lượng binh tướng cụ thể và nhất
định cũng như không chỉ quấy nhiễu một số nhân vật
đặc biệt nào đó, mà Ma vương trong ý nghĩa rộng rãi
nhất của kinh điển thì bao gồm luôn tất cả những tạp
niệm, những cảm giác không cần thiết, hy vọng và sợ
hãi, đau khổ và hạnh phúc, những gì ta đang nếm trải
cùng tất cả những hoài ức và hoài vọng. Ðối với Ðức
Phật, Ma vương là ngai vàng của dòng Thích Tộc, các
mỹ nữ rồi cả những giọt nước mắt của người cha già
Tịnh Phạn... Còn đối với chúng ta, những người đệ tử
của Ngài đang trên đường hướng tới cứu cánh giải
thoát thì Ma vương có thể là tất cả những bận rộn
thường nhật trong đời sống: Từ chuyện đưa con đến
trường, việc hạ mình chiều lòng ông chủ, việc vệ
sinh cá nhân rồi trăm ngàn thứ bận rộn khác nữa. Như
đã nói tất cả chỉ là những ảo ảnh đi qua trong tâm
hồn của chúng ta, nếu chúng ta biết sống tỉnh thức
thì sẽ không có một ảo ảnh nào trong số đó có thể
nhiễu động chúng ta và đổi lại, ta sẽ có được một
nội tâm yên bình, hiểu biết, khoáng đạt và trong
sáng mà chính Ðức Phật đã thể nghiệm.
Tuy nói là vậy, chúng ta cũng phải
nhận rằng mình đã phải mất quá nhiều thời gian cho
những cuộc rong chơi của ý thức. Chúng ta khó mà
thực hiện điều mình hiểu là cần thiết. Ðó chính là
thái độ phản ứng mang tính tập quán của chúng ta đối
với cuộc đời: Chạy đuổi theo sau để mong nắm bắt
được những gì đang vuột khỏi tầm tay mình. Tôi nhớ
hồi còn bé, tôi thường rất thích cái trò chơi giẫm
bóng. Trong những lúc đó tôi cố gắng nhảy vào ngay
giữa cái bóng của mình, nhưng quý vị cũng hiểu đó,
làm sao tôi có thể thực hiện được cái ý muốn phi lý
này của mình bởi lúc nào đôi chân của tôi cũng đặt
ngay phía dưới chân của cái bóng cả. Cứ thể dù thất
bại tôi vẫn cố hy vọng để rồi lại thất vọng. Bởi dù
ở đâu và lúc nào, có ai làm được điều đó đâu chúng
ta thử nghĩ lại xem, đời sống của người lớn chúng ta
cũng đâu có khác gì cái trò chơi ngớ ngẩn đó của con
nít. Chúng ta theo đuổi, tìm kiếm đủ mọi thứ tiền
tài, danh vọng để rồi chúng ta chẳng bao giờ thực sự
nắm bắt được bất cứ cái gì hết. Vạn vật và vạn sự
luôn vô thường nên về hình thức cho dầu chúng ta có
thành đạt được điều mình muốn thì cái ta muốn và cái
ta đạt được là hai thứ hoàn toàn khác nhau.
Trong đời sống, chúng ta thường có
hai thái độ mưu cầu hạnh phúc và trốn chạy đau khổ.
Câu chuyện nhỏ trên đây về trò chơi của tuổi thơ tôi
cũng giống như trường hợp ta đi tìm một thứ hạnh
phúc thật sự qua những tiền tài danh vọng. Càng đuổi
bắt nó ta càng dễ thất vọng và nếu có được một chút
gì đó toại nguyện thì đó vẫn chưa phải là cái chúng
ta thật sự đi tìm. Còn đối với đau khổ, thái độ đối
kháng hoặc trốn chạy cũng chẳng khác gì ý muốn vượt
khỏi cái bóng của chính mình: Ta có chạy đến đâu và
bằng tốc độ nào thì cái bóng cũng vẫn ở ngay dưới
đôi chân của ta. Ðau khổ là một mặt trái của đồng
tiền cuộc đời, ta không thể dại khờ chối bỏ nó bằng
phương cách đối kháng và trốn chạy trong mù quáng.
Qua ví dụ về cái bóng, tôi muốn nhấn mạnh đến hai
vấn đề quan trọng của đời sống và trong cả cuộc tu
của chúng ta: Chúng ta không thể tìm được cái hạnh
phúc thật sự cũng như đứa bé không thể tự do đặt
chân lên bất cứ chỗ nào trên cái bóng của mình và
chúng ta cũng không thể nào trốn chạy được cái đau
khổ vốn là bản chất của đời sống bản thân như người
ta không thể nào chạy khỏi được cái bóng của mình.
Vấn đề thứ hai, hạnh phúc và đau khổ chỉ là những
cái bóng nên việc chúng ta theo đuổi hay trốn chạy
chúng cũng chẳng khác gì trò chơi của trẻ con hoặc
người mất trí. Kết quả của hai thái độ đó chỉ là
hoài công và thất vọng.
Nhờ hiểu được mọi thứ chỉ là những
cái bóng nên tất cả những ham muốn và sợ hãi trong
chúng ta coi như được đình chỉ. Ðây chính là cứu
cánh giải thoát thật sự. Và đến đây thì chúng ta
cũng đã có thể nhận ra rằng từng phút tu tập đúng
đắn chúng ta luôn nhận được từng giây phút giải
thoát. Hành trình và đích đến ở đây coi như gắn liền
nhau bởi rõ ràng là ở đâu có sự tu tập đúng đắn thì
ở đó có sự hiểu biết và tỉnh thức mà tỉnh thức và
hiểu biết lại là chính lý tưởng của cuộc tu./.
-ooOoo-
|
Ðại đức
Thanavaro
Ðịnh
nghĩa về hạnh phúc
Tiểu sử:
Ðại đức Thavanaro (Giuseppe Proscia) sinh năm
1955 tại miền Ðông Bắc nước Ý. Từ bé, sớm có năng
khiều về nghệ thuật và từ đó đại đức đã theo học các
bộ môn âm nhạc, khiêu vũ và kịch nghệ. Trong thời
gian đi lính, đại đức đã gặp được đệ tử của một vị
Lạt Ma Tây Tạng và được giới thiệu đại khái về Phật
Giáo. Khi giải ngũ, đại đức sang Luân Ðôn học nhạc
và làm việc tại một nhà hàng ăn uống. Trong một lần
về lại Ý, đại đức tình cờ đọc được một cuốn sách
viết về các trung tâm Phật giáo ở Anh Quốc và đặc
biệt là được nghe kể về ngài Sumedho. Quay lại Anh
Quốc, đại đức tìm đến gặp mặt Ngài Sumedho tại trung
tâm Phật Giáo Oakenholt gần Oxford nơi có nhiều vị
sư Phật giáo đang lưu trú.
Vào tháng 10 năm 1977 đại đức vào làm giới tử ở
chùa Hampstead Vihàra đúng một năm rồi tu sa di. Năm
1979 đại đức đã thọ giới tỳ kheo với hòa thượng tiến
sĩ Saddhatissa trên một chiếc tàu giữa dòng sông
Thames. Như vậy đại đức Thanavaro là vị Tăng thiền
sinh da trắng đầu tiên của Ngài Ajahn Chah xuất gia
tại Anh quốc.
Ðại đức Thanavaro đã sống tại hai chùa Chithurst
và Harnham suốt sáu năm trời trước khi tháp tùng với
đại đức Viradhammo sang Tân Tây Lan năm 1985 để xây
dựng một ngôi chùa tại Wellington.
Bài viết sau đây là câu trả lời Phật pháp của đại
đức trong một buổi công giảng tại Palmerston North
(Tân Tây Lan) năm 1988 mà nội dung vốn được trích từ
bài kinh Ðại Kiết Tường (Mahàmangalasutta) trong tập
Suttanipàta (thuộc Tiểu Bộ Kinh).
Ðịnh
Nghĩa Về Hạnh Phúc
Thiền định là một con đường đem lại cho chúng ta
cái khả năng tỉnh thức nhìn ngắm tất cả mọi biến
dịch. Bất cứ cái gì trên đời này cũng chỉ đều là
những chuỗi dài biến dịch. Vấn đề đơn giản lắm. Khi
thiếu đi khả năng trí tuệ để thanh thản nhìn ngắm
các chuỗi biến dịch đó, thì ta chỉ còn có mỗi một
cách sống duy nhất là đối kháng cuộc sống, đối kháng
với tất cả những gì mà mình cảm thấy không muốn chịu
đựng. Hậu quả tất nhiên của thái độ sống này chỉ là
những thất vọng và cực lòng. Chúng ta hầu như cứ
suốt đời sống tuân theo những thói quen và tự đánh
mất cái khả năng tự do mà lẽ ra mình được quyền có.
Chúng ta cứ chất đầy trong đầu mình hàng trăm ngàn
thứ vấn đề để tự cho chúng là nan giải rồi cứ vậy mà
đau khổ một cách tự nguyện.
Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu cứ mỗi buổi sáng
chúng ta rửa sạch khuôn mặt của mình rồi đồng thời
rửa luôn trong lòng tất cả những gì là bận bịu để
tâm hồn có được những cảm giác tươi tắn, mới mẻ,
trong lành. Nhưng liệu nội tâm của chúng ta có thể
được rửa sạch được một cách dễ dàng như mặt mày tay
chân của chúng ta hay không?
Dĩ nhiên nội tâm của chúng ta không giống như
thân thể của chúng ta, nhưng thật ra ta vẫn có cách
tẩy sạch được nó. Ðó chính là con đường tự gây tạo
trong đời sống bản thân những hạnh phúc cao khiết.
Nhưng chúng ta đã biết gì về con đường đó? Tôi nghĩ
rằng hầu hết chúng ta đều có ít nhiều bỡ ngỡ về vấn
đề này. Có người quan niệm rằng kiếm được thật nhiều
tài sản là cách duy nhất để đầu tư hạnh phúc. Nhưng
chúng ta thấy đấy, không phải lúc nào tiền bạc cũng
có thể mua được hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà tôi đang
muốn nhấn mạnh ở đây phải là những hạnh phúc có được
từ sự hiểu biết, chúng đến một đời sống năng động
chín chắn. Có được một đời sống chín chắn thì cũng
có nghĩa là chúng ta đang được hạnh phúc. Trong kinh
điển, Ðức Phật đã đề nghị chúng ta những nếp sinh
hoạt khả dĩ mang lại cho mọi người những niềm hạnh
phúc thật sự. Những lời đề nghị của Ðức Phật mà
chúng tôi vừa nhắc đến, đúng là những quy tắc căn
bản luôn có giá trị mọi nơi mọi lúc mà không ai có
thể phủ nhận.
Trong kinh tạng Nguyên thủy có một bài kinh mà
nội dung chính là những gì mà chúng tôi vừa giới
thiệu. Trong đó, Ðức Phật nhắc đến một đời sống hạnh
phúc được thực hiện qua những qui tắc dễ hiểu, dễ
thực hiện.
Trước hết, Ngài dạy người Phật tử hãy biết chọn
bạn mà giao du: Gần người tốt xa người xấu. Cái ít
nhất mà nếp sống này có thể mang lại cho chúng ta
chính là đức tính khiêm tốn. Ta dĩ nhiên tôn trọng
người mình chọn làm thầy, làm bạn và chính thái độ
này đã là một niềm hạnh phúc cho chúng ta.
Ðức Phật dạy rằng sống ở một trú xứ tốt cũng là
nguồn hạnh phúc. Ðiều này dễ thấy thôi: Chúng ta khó
mà có được một đời sống an toàn, tiến bộ khi cư ngụ
ngay những nơi ồn ào, phức tạp hoặc thiếu điều kiện
tu tập và học hỏi với các cao nhân.
Cứ vậy, bài kinh lần lược nhắc đến ba mươi tám
quy tắc cơ bản mà lúc nào chúng ta cũng có thể vận
dụng để đem vào đời sống của mình. Từng điều trong
ba mưới tám điều đó luôn có đủ hai giá trị tự lợi và
lợi tha. Chẳng hạn như Ðức Phật dạy người Phật tử
phải có tinh thần trách nhiệm với những người thân,
phải biết trao đi với người khác để san sẻ hoặc tiếp
nhận những kinh nghiệm cần thiết. Chúng ta không thể
sống một mình nếu tinh thần tự lợi và lợi tha luôn
là cần thiết. Và bên cạnh đó, ở bất cứ nơi đâu và
lúc nào ta cũng có thể tự tìm thấy cho mình một
nguồn hạnh phúc bởi cái hạnh phúc thật sự chỉ đơn
giản là khả năng tỉnh thức về chính bên trong tâm
hồn của mỗi chúng ta. Tất cả 38 điều được xem là qui
tắc sống trên đây thật ra chỉ tập trung trong một
vấn đề duy nhất, đó là khả năng tự tĩnh, mà tự tĩnh
là một tên gọi khác của thiền định. Chúng ta hãy tự
hỏi lòng mình, tự trắc nghiệm mình xem đã có thể
sống được với lý tưởng thiền định hay chưa. Thiền
định là một con đường thanh lọc nội tâm. Khi nội tâm
chưa được trong sáng thì có nghĩa là nó vẫn còn tiếp
tục bị nhiễu động, ngăn trở. Trong tình trạng đó,
đầu óc chúng ta chỉ có thể cảm nhận được những vấn
đề rắc rối, cái này chồng chất lên cái kia. Mãi cho
đến khi nào chúng ta sống được với một nội tâm thanh
thản bao dung, tháo gỡ được những gì vẫn được xem là
"vấn đề" thì khi đó tự nhiên chúng ta sẽ đi đến một
giai đoạn tạm gọi là Bùng Vỡ Ý Thức. Thế là đã quá
đủ rồi. Bùng Vỡ Ý Thức là công đoạn giải thoát của
hành trình tu tập, mang ý nghĩa tẩy sạch những cấu
uế của nội tâm.
Thực ra cụm từ Bùng Vỡ Ý Thức chính là cụm từ đã
được thầy tôi là Ngài Ajahn Sumedho sử dụng khi giải
thích về thiền định. Ðó là một giai đoạn mà chúng ta
sống trong sự tự điều phục, tự mình làm thầy cho
mình và kiểm soát bản thân. Có đi đến giai đoạn đó,
quý vị sẽ tự biết thôi. Tôi dĩ nhiên không thể đem
trường hợp của mình để ngồi kể lại cho các vị. Ðiều
quan trọng nhất là tôi muốn các vị hãy biết rằng,
Theo Phật giáo, trên suốt hành trình tu tập của mỗi
người, trước khi đạt đến cứu cánh giải thoát tức khả
năng hoàn toàn thức tỉnh, thì từng người trong chúng
ta luôn bị ngăn trở bởi ba thứ phiền não Tham, Sân,
Si. Nói gọn lại như vậy nhưng ba thứ phiền não này
luôn ẩn hiện trong trăm ngàn hình thức tư tưởng.
Thậm chí đã có người còn nói nôm na rằng có bao
nhiêu pháp môn trong kinh Phật thì có đến chừng ấy
những biến thể của một trong ba phiền não đó. Hay
nói một cách rốt ráo hơn, gần như từng dòng tư tưởng
của chúng ta điều có sự hiện diện của phiền não. Có
thể đó là suy nghĩ về một viên kẹo, ý thức về tiếng
muỗi bay hay một quan điểm chính trị, văn hóa, tôn
giáo... nào đó!
Một ý nghĩa khác của thiền định là sự vượt qua
các khuynh hướng cực đoan. Bản thân sự vượt qua đó
chính là từng bước của công phu thiền định, từng
bước để chúng ta tự giải thoát chính mình. Có ai
trong số các vị ở đây muốn đặt nghi vấn nào đó với
tôi về bài giảng này hay không?
-ooOoo-
|
Ðại đức
Jayasaro
Ngày
xưa sư phụ ...
Tiểu sử:
Ðại đức Jayasaro (Shaun Chiverton) sinh năm 1958
tại Isle of Wight, Anh Quốc. Từ những ngày còn ngồi
ở ghế học đường, đại đức luôn là một học trò xuất
sắc. Năm lên mười bốn tuổi, sau ba tuần lễ sống ở
Morocco, ý tưởng đi du lịch xứ người đã vùng lên
mãnh liệt trong lòng đại đức. Tốt nghiệp xong, đại
đức quyết định tìm sang Ấn Ðộ.
Sau mười tám tháng dài đi khắp xứ Ấn, đại đức đã
bắt đầu có hứng thú đối với các tôn giáo phương
Ðông, đặc biệt là thiền định của Phật giáo. Năm
1977, đại đức sang Iran để dạy tiếng Anh trong thời
gian ba tháng rồi sau đó, đại đức trở về Anh quốc
làm việc với cha mình, vốn là một vị kỹ sư tại đại
học Sussex.
Năm sau, đại đức đến viếng chùa Hampstead và sau
đó trải qua một mùa an cư làm giới tử dưới sự hướng
dẫn của Ngài Ajahn Sumedho tại Oakenholt gần Oxford.
Năm 1980, đại đức sang Thái Lan thọ giới tỳ kheo với
thiền sư Ajahn Chah. Sau đó, đại đức về chùa
Nanachat. Năm 1988, đại đức tháp tùng với Hòa thượng
Tan Chao Khun Pannananda sang viếng thăm Anh quốc.
Từ năm 1986, đại đức Jayasaro đã cùng với đại đức
Abhichat được giao trách nhiệm viết lại tiểu sử
thiền sư Ajahn Chah. Bài viết sau đây là đôi điều về
cuộc đời của Ngài đã được đại đức Jayasaro nhắc lại
trong một cuộc nói chuyện ở trung tâm Phật giáo
Amaravati vào tháng 6 năm 1988 trong dịp về thăm lại
Anh quốc.
Ngày
Xưa Sư Phụ...
Tôi được gặp thiền sư Ajahn Chah lần đầu tiên vào
ngày 15 tháng 12 năm 1978. Trước đó tôi đã trải qua
một mùa an cư để làm giới tử thọ trì tám giới với
Ngài Ajahn Sumedho ở Oakenholt. Sau đó, tôi đi về
Thái Lan và đến chùa Pah Pong. Một vị đại đức người
Úc pháp danh Pamutto đã dắt tôi đến gặp thiền sư
Ajahn Chah. Lúc đó Ngài đang ngồi trong thất để uống
nước. Ngài nhìn tôi rồi mỉm cưới, một nụ cười thật
ấm áp. Ngài đưa cho tôi ly nước đang cầm trên tay và
tôi đã cung kính nhận lấy. Khi quay lại phòng mình,
chẳng biết tại sao tôi cứ thấy xúc động và khóc một
mình. Cử chỉ chân tình của Ngài thiền sư đã chinh
phục tôi. Từ hôm đó tôi không muốn rời xa chùa Pah
Pong nữa và tự cảm thấy không có gì có thể ngăn tôi
trở thành một học trò của thiền sư Ajahn Chah.
Nhiều người cứ thắc mắc chẳng biết bằng cách nào
mà Ngài Ajahn Chah có thể giao tiếp và hướng dẫn
những người học trò Tây phương vốn đến từ nhiều quốc
gia và nói đủ thứ tiếng. Thậm chí có lần người ta
còn cho rằng Ngài Ajahn Chah phải biết vài ba thứ
ngoại ngữ căn bản như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng
Nhật, tiếng Ðức...
Khi được Ngài Ajahn Chah xác nhận là không biết
gì về các ngoại ngữ đó cả thì người ta lại hỏi Ngài
đã bằng cách gì có thể dạy dỗ những người học trò
Tây phương. Tôi nhớ Ngài đã trả lời câu hỏi đó bằng
một câu hỏi ngược lại:
- Trong nhà các vị chắc là cũng có nuôi một số
gia cầm, gia súc phải không? Dĩ nhiên các vị không
thể nói chuyện với chúng được nhưng các vị có thể
huấn luyện và điều khiển chúng được hay không?
Vấn đề ngôn ngữ trao đổi quả là không quan trọng
đối với Ngài Ajahn Chah, chắc chắn Ngài nhận biết
rất rõ cái hạn chế của ngôn ngữ và văn hóa các dân
tộc. Những thứ đó còn có ý nghĩa gì khi Ngài cũng
đồng thời biết rất rõ một điều là mọi tư tưởng phàm
phu được cấu tạo như thế nào. Phương pháp dạy thiền
của Ngài là làm sao có thể vạch rõ cho các môn đệ
trực tiếp nhìn thấy những sinh hoạt của nội tâm. Bài
học căn bản nhất mà Ngài vẫn dạy chúng tôi là phương
thức khám phá các tác dụng làm khổ của mọi ham muốn.
Ngài luôn cố gắng xây dựng cho chúng tôi một trí tuệ
thiền định đặt rên cơ sở của giáo lý Tứ Ðế. Số lượng
từ vựng được Ngài sử dụng để hướng dẫn thiền sinh
chỉ quẩn quanh mấy chữ nhưng ý nghĩa và hiệu quả thì
không sao nói hết được.
Có thể nói, với lối hướng dẫn của Ngài Ajahn
Chah, người ta chỉ có thể chấp nhận khi đặt hết niềm
tin vào Ngài. Ngài đơn giản quá, đơn giản đến mức
rất dễ gây hiểu lầm. Nhưng với một thời gian tiếp
cận lâu dài, ta sẽ thấy được rằng Ngài là một vị
thiền sư có lòng độ lượng không bờ bến.
Trước hết đối với người sơ cơ, Ngài dạy cách sống
từ bỏ tất cả. Nhưng Ngài không bỏ mặc ta với lời
hướng dẫn ngắn ngủi đó, Ngài còn dạy rất nhiều điều
cần thiết khi ta không thể dứt bỏ mọi thứ. Chẳng hạn
Ngài có thể khuyên ta phép sống chịu đựng, bởi phải
nói rằng, tinh thần Dứt Bỏ Mọi Thứ thật không dễ
dàng thực hiện chút nào nếu ta chỉ tiếp nhận lời dạy
của Ngài như một bài học mang tính kiến thức. Trong
trường hợp đó, lời dạy về cách sống chịu đựng xem ra
có vẻ cụ thể và hữu hiệu hơn. Ngài liên tục cho thay
đổi nếp sinh hoạt trong thiền viện để các thiền sinh
có thể tránh được những áp lực sinh lý hoặc nói rộng
hơn là trong nếp sống thường nhật. Ðiều này có một ý
nghĩa hết sức quan trọng là để giúp các thiền sinh
tránh được lối sinh hoạt tù đọng và chấp thủ. Chính
vì luôn sống trong một nếp sinh hoạt sẵn sàng được
thay đổi nên các thiền sinh sẽ phải liên tục trải
qua từng giây phút chú ý và cảnh giác.
Ðọc lại những trang tiểu sử về những ngày tháng
tuổi trẻ của thiền sư Ajahn Chah, cái quan trọng
nhất đối với tôi chính là những vấn đề mà Ngài đã tự
dàn xếp và vượt qua. Tự truyện về cuộc đời của các
bậc đại sư thường để lại cho chúng ta cái ấn tượng
rằng các Ngài đã là các bậc cao khiết từ độ tuổi
chín, mười, liễu ngộ dễ dàng nhờ vào một khả năng
tinh thần tuyệt thế. Nhưng đối với thiền sư Ajahn
Chah thì lại là một trường hợp khác hẳn. Ðời tu của
Ngài là cả một quá trình phấn đấu gian nan. Chính
Ngài đã kể lại từng đoạn đường mà mình đã đi qua một
cách hết sức thiệt thà: Ngài đã từng có những giây
phút đối diện với lòng ham muốn của chính mình trước
một bình bát tốt, một bộ y đẹp... Rồi từng bước hạn
chế tối đa những nhu cầu vật chất, kể cả những thứ
hoàn toàn hợp pháp tức giới luật cho phép sử dụng,
cất giữ, Ngài đã có những kinh nghiệm tu học thật
khả kính mà cũng vô cùng cảm động: từ chối tất cả
mọi thứ để rồi khi lá y mặc trên người bị sờn rách
tả tơi mà vẫn không đi tìm một chiếc ý mới nào khác,
chỉ lặng lẽ đi tìm từng miếng vải vụn rồi tự vá lấy
một mình.
Thiều sư Ajahn Chah rất thương các học trò của
mình, Ngài sẵn sàng lo lắng giúp đỡ khi có người cần
đến dù bản thân ngài luôn có nhiều bận rộn, kể cả
những vấn đề phải giải quyết ở chính mình. Lần đó,
trước khi bắt đầu một mùa an cư, Ngài quyết định sẽ
không để mắt nhìn thấy bất cứ người phụ nữ nào hết
để tự kiểm tra lại một cách nghiêm túc nội tâm chính
mình. Ba tháng trôi qua Ngài đã thực hiện đúng bản
nguyện. Thế rồi vào ngày cuối cùng của mùa an cư, có
rất nhiều Phật tử đến viêng chùa để cúng dường Tăng
chúng, nam nữ đủ cả. Lúc đó Ngài đã suy nghĩ một
mình: "Ðã ba tháng rồi, mình đã làm đúng quyết định
của ngày đầu tiên trong mùa an cư, hôm nay là ngày
cuối cùng mình thử thả trôi đôi mắt để xem điều gì
xảy ra". Thiền sư Ajahn Chah đã ngước nhìn lên và
đúng ngay lúc đó, một cô nàng trẻ tuổi đang đứng
trước mặt Ngài. Ngài kể lại rằng trong khoảnh khắc
đó mình đã có cảm giác như bị một tia sáng cực mạnh
quét ngang bàng hoàng thảng thốt. Khi đó Ngài nhận
ra một điều rằng một sự thu thúc mang tính hình thức
và cảm giác thì vẫn chưa đủ. Không chỉ riêng đối với
đôi mắt, mà đối với các giác quan còn lại kể cả ý
thức nếu chỉ được khép kín bằng một thái độ đè nén,
gò ép và khiên cưỡng mà không có sự can thiệp của
trí tuệ thật sự thì chuyện giải thoát vẫn là một
điều bất khả.
Thiền sư Ajahn Chah luôn đặc biệt nhấn mạnh đến ý
nghĩa quan trọng của trí tuệ trong đời sống tu học.
Ngài thường bảo rằng chỉ tự chế trong hình thức thì
vẫn chưa đủ mà người tu hành nói chung còn phải có
được một nội tâm chánh niệm và quan sát. Bởi nếu chỉ
bằng vào đôi chút hứng thú mang tính chất nhất thời
cộng với khả năng phản tỉnh quá hạn chế thì thường
kết quả tu tập chẳng đi đến đâu hết và đây cũng là
lý do tại sao các nhà sư quyết định hoàn tục. Các vị
đã chấp nhận đời sống khuôn khổ trên hình thức nhưng
trong nội tâm vẫn chưa kịp có được một khả năng thấu
suốt thật sự, hay nói cách khác là họ đắp lên mình
chiếc y mà vẫn chưa được đả thông tư tưởng. Ngài
Ajahn Chah khẳng định rằng một sự nỗ lực bền bĩ luôn
có giá trị hơn một kiểu tinh tấn vượt bực nhưng mang
tính bộc phát và ngắn hạn, vì ý nghĩa đích thực của
cuộc tu nói chung và đối với hành giả thiền định nói
riêng là từng ngày, từng tháng rồi từng năm ta vẫn
trước sau giữ được cái chừng mực nhất định. Thời
gian có thể trôi đi, mọi sự cố trong đời sống có xảy
ra như thế nào đi nữa nhưng cái quí là nội tâm người
tu vẫn trước sau như một. Ngài thiền sư đã từng dạy
rằng cái thật sự cần thiết trong pháp môn thiền quán
chỉ đơn giản là khả năng tỉnh thức một cách Kiên Cố,
Thường Trực, Kịp Thời đối với những gì mình đang
làm, đang nói, đang suy nghĩ. Khả năng tỉnh thức đó
không phải chỉ được duy rì trong một thời điểm nhất
định nào hết, mà đó là toàn bộ vấn đề của đời sống
tu tập. Theo Ngài, chúng ta phải luôn có những tự
vấn: "Tôi đang làm cái gì? Tại sao tôi làm việc này?
Liệu tình trạng tâm lý này có ổn không?" Tất cả các
thực tại mà người hành giả nhìn ngắm trong từng phút
luôn thay đổi liên tục nên chánh niệm của chúng ta
cũng phải luôn linh hoạt và bén nhạy theo để có thể
kịp thời ghi nhận. Ngài Ajahn Chah dạy rằng trong
trường hợp đó chánh niệm của chúng ta cứ như từng
giọt nước nhỏ vào thực tại sở tri. Và như ta đã
biết, mỗi giọt nước tuy nhỏ nhoi nhưng với một số
lượng lớn thì chúng ta sẽ trở thành một dòng nước
mạnh và mục đích tu tập của chúng ta chính là làm
thế nào để có được một dòng thác chánh niệm sung mãn
và mãnh liệt.
Ðiều đáng lưu ý là thiền sư Ajahn Chah thường có
vẻ như không muốn đá động đến việc phân cấp các
trình độ tu chứng. Ngài cố tránh cho thiền sinh cái
ý tưởng khát vọng hoặc ngộ nhận một cách nguy hiểm
qua cái gọi là trình độ này, trình độ nọ. Lần đó, có
người đến hỏi Ngài về trạng thái tâm lý của một vị A
La Hán, Ngài đã trả lời như sau:
- A La Hán là A La Hán, chưa chứng quả A La Hán
thì chưa phải là bậc A La Hán. Chúng ta là chúng ta,
còn là phàm phu thì chúng ta không thể giống như A
La Hán. Ðiều quan trọng nhất là quay lại với chính
mình, tu học một cách nghiêm cẩn và đúng đắn để trở
thành bậc A La Hán.
Thiền sư Ajahn Chah luôn cố tránh nói nhiều điều
về mình, đặc biệt trước những câu hỏi về thành quả
tu học của chính bản thân Ngài. Trong cách thuyết
giảng, Ngài cũng luôn cố tránh thứ ngôn phong mang
tính giáo điều và mệnh lệnh. Chẳng hạn thay vì nói
"Ông (hay bà) hãy làm như thế này, hãy nói như thế
kia..." thì Ngài lại thường dùng cách nói khiêm tốn
hơn, nói như một kiểu san sẻ gần gũi: "Chúng ta nên
làm như thế này, chúng ta nên suy nghĩ như thế
kia..." Ðối với ai Ngài cũng có cách nói chuyện như
thế cho nên ta khó mà phân biệt được Ngài đang nói
chuyện với ai, nam hay nữ, với một người hay nhiều
người nếu chỉ được nghe lại bài nói chuyện của Ngài
qua băng ghi âm.
Về cách sắp xếp nếp sinh hoạt trong các thiền
viện dưới quyền điều hành của mình, thiền sư Ajahn
Chah đã áp dụng rất nhiều kinh nghiệm được kế thừa
từ sư phụ của mình ngày xưa là thiền sư Ajahn Mun,
nhưng dĩ nhiên bên cạnh đó Ngài cũng không quên vận
dụng một cách hợp lý những kinh nghiệm của riêng
mình trong những năm tháng còn sống đời du hành.
Ngài Ajahn Chah luôn đặc biệt nhắc tới tinh thần tập
thể và thường xuyên đề cập đến bài Kinh Ðại Bát Níp
Bàn như là một nguyên tắc sống cho các đệ tử. Trong
bài kinh đó, Ðức Phật đã nói rất nhiều về tinh thần
trách nhiệm và đoàn kết của Tăng chúng với nhau, mỗi
cá nhân đều nên biết tôn trọng ý kiến tập thể. Là
một thiền sư nên Ngài Ajahn Chah cũng đã dùng đến
Luật tạng để làm môn quy hướng dẫn các thiền sinh
Tăng, tục. Ngài không chỉ nhắc nhở người khác mà còn
tự thể hiện tinh thần đó ngay trong chính đời sống
của mình nữa. Giờ giấc sinh hoạt do Ngài Ajahn Chah
đưa ra có thể nói là khá khắt khe. Thường thì trước
buổi tụng kinh sáng Ngài dành cho khoảng một hai
tiếng đồng hồ để nhắc nhở chư Tăng. Khi tiếng chuông
báo hết giờ tụng kinh thì hầu hết các Tăng thiền
sinh đều ngại phải quay về cốc của mình bởi ở đó các
vị có thể sẽ bị buồn ngủ. Rồi cứ vậy mà tất cả ra
ngồi thiền dưới các gốc cây để chờ sáng.
Thỉnh thoảng, Ngài Ajahn Chah lại tổ chức những
buổi tọa thiền vào giờ khuya như vậy và trong những
ngày đó phải nói là các thiền sinh rất vất vả. Chúng
ta hãy thử tưởng tượng một cánh rừng lúc giữa khuya
lại thiếu ánh sáng thì cảm giác của những người ở đó
sẽ ra sao. Ðã vậy, những đêm đó thường là những đêm
tối trời không trăng, khu rừng rậm rạp mịt mùng với
thật nhiều dã thú nguy hiểm như rắn, rít, cọp,
beo... Toàn khu rừng gần như lặng, mãi đến lúc gần
sáng thì ta mới nghe được tiếng chân của các vị tăng
thiền sinh đi về cốc và sau đó là tiếng tụng kinh
của các vị được vang lên trong cùng lúc. Nhờ vậy mà
khu rừng có vẻ ấm cúng và an toàn hơn đôi chút. Thật
ra trước đây trong rừng thiền đã được lắp đặt hai
mươi bóng đèn nhưng rồi chúng bị hỏng đi thì không
ai nhắc tới chuyện thay các bóng mới nữa.
Ðôi lúc thiền sư Ajahn Chah có vẻ như không thích
bất cứ ai đến sống gần với mình. Nếp sinh hoạt của
Ngài tuy rất bình thường nhưng vẫn có chút gì đó rất
khác biệt so với các đệ tử. Ðiều này có thể cũng do
trình độ tu chứng của Ngài cũng nên. Có đôi lần tình
cờ, Ngài Ajahn Chah cho biết rằng chỉ với ba mươi
phút được sống hết mình một cách tròn vẹn trong
thiền định thì coi như Ngài có thể khỏe khoắn chẳng
kém gì sau một giấc ngủ tám giờ đồng hồ. Ở Ngài
Ajahn Chah, ta có thể nhận thấy những điều gần như
không thể hiểu được. Có khi Ngài bỏ ra hằng mấy giờ
đồng hồ để trò chuyện với mọi người chung quanh. Có
điều lạ lùng là Ngài có thói quen kể lại hàng trăm
lần một câu chuyện mà lần nào Ngài cũng kể lại bằng
tất cả xúc cảm hứng thú như mới kể một lần đầu tiên.
Ngài ngồi giỏi lắm, có thể ngồi nhiều giờ đồng hồ
tại một chỗ trong khi những người chung quanh đã gần
như không còn có thể ngồi yên được nữa.
Một điều nữa cũng đáng được ghi nhận về thiền sư
Ajahn Chah là Ngài có một lối xoa dịu đau khổ của
người khác một cách rất đặc biệt mà mới thoạt nghe
qua ta cứ dễ ngỡ rằng Ngài mỉa mai châm biếm. Nhất
là đối với các vị sư học trò người Tây phương, Ngài
thường dùng cách này để trấn an họ. Có một vị sư
người Anh học trò Ngài, đại đức Thitappo, vị được
Ngài chú ý đến nhiều nhất và chính vị này cũng là
người phải chịu đựng những lời thử thách của Ngài
nhiều nhất. Một hôm có một số đông khách thập phương
đến viếng chùa và như thường lệ, Ngài Ajahn Chah đã
có lời khen ngợi các vị sư người Tây phương về cái
khả năng tu học, làm việc và đức hạnh. Ðang nói nửa
chừng, Ngài Ajahn Chah bỗng dừng lại và chỉ tay về
phía đại đức Thitappo rồi nói với mọi người:
- Nãy giờ tôi khen các vị kia, chứ riêng ông này
thì đần độn hơn cả!
Sau đó ít hôm, gặp mặt đại đức Thitappo. Ngài hỏi
như không có gì xảy ra:
- Hôm trước tôi nói vậy, sư có giận tôi không?
Nhìn lên Ngài thiền sư, đại đức Thitappo cung
kính trả lời:
- Làm sao con có thể giận được chứ, giận Ngài thì
có khác gì nổi giận với một ngọn núi!
Có vài lần, trước tánh khí lạ lùng của thiền sư
Ajahn Chah, nhiều người bảo Ngài sao cứ giống như
một đại sư bên Thiền Tông của Phật giáo Bắc Truyền.
Khi nghe vậy Ngài Ajahn Chah chỉ mỉm cười:
- Tôi chẳng là đại sư Thiền Tông nào hết, tôi cứ
thấy mình cứ giống như thiền sư Ajahn Chah mà thôi!
Lần đó có một vị sư người Triều Tiên đến viếng
thăm Ngài Ajahn Chah và xin được trao cho một công
án, Ngài đã từ chối thẳng thừng và còn cho đó là trò
chơi của trẻ con nữa. Ngài bảo với vị này rằng muốn
chơi bất cứ trò nào thì trước hết phải hiểu biết quy
tắc của trò chơi đó. Ðối với pháp thiền cũng vậy,
phải có khái niệm và hiểu được mục đích của nó thì
mới may ra tự tìm thấy cho mình một câu trả lời chín
chắn. Còn cái chuyện công án gì đó thì thật ra vẫn
chỉ là một trò chơi mà thôi. Một hôm khác, vị sư
người Triều Tiên này lại đến kể cho Ngài Ajahn Chah
câu chuyện về cuộc đối thoại giữa Lục Tổ Huệ Năng
với hai vị học Tăng Trung Hoa, xong rồi vị này mới
hỏi Ngài:
- Lấy mắt mà nhìn thì rõ ràng là lá phướn bay
nhưng theo Ngài thì đó là tướng của lá phương hay
tướng của gió?
Ngài Ajahn Chah trả lời không chút do dự:
- Chẳng phải là phướn động cũng chẳng phải là gió
thổi mà là do nội tâm của người nhìn lá phướn.
Vị sư Triều Tiên bội phần kính phục và sụp mình
đảnh lễ thiền sư Ajahn Chah. Nhưng ngay lúc đó Ngài
lập tức mỉm cười và bảo rằng đó là câu trả lời của
Lục Tổ Huệ Năng mà người đã đọc được trong một bản
dịch tiếng Thái.
Có rất nhiều người trong số chúng ta cứ lầm lẫn
hai khái niệm Sâu Sắc và Ô Hợp trong trí tuệ tu học.
Ngài Ajahn Chah nhận biết rất rõ điều này và thường
cố gắng giải thích cho các thiền sinh hiểu được cái
sâu sắc thật sự và cần thiết thông qua những khái
niệm đơn giản nhất. Ðịnh luật vô thường là một vấn
đề đơn giản mà cũng sâu sắc nhất trong trí tuệ thiền
định. Ngài thường nhấn mạnh như vậy. Thiền sư Ajahn
Chah bảo rằng chiếc chìa khóa tốt nhất để khám phá
thế giới chính là khả năng ghi nhận cẩn trọng bản
chất vô thường của vạn vật. Ngài không dùng bất cứ
một ngôn ngữ Tây phương nào để nói về thiền cả, Ngài
chỉ nói bằng tiếng Thái thôi và trong các buổi
thuyết giảng về thiền định, người ta thường nghe
Ngài nhắc đi nhắc lại hai chữ "Mấy Né!" mà trong
tiếng Thái có nghĩa là "vô thường, không chắc chắn".
Thiền sư Ajahn Chah gần như đã đưa định luật vô
thường lên vị trí hàng đầu lên cả các khía cạnh giáo
lý khác. Trong những giờ dạy thiền, Ngài thường nhắc
nhở các thiền sinh một điều là: "Chúng ta không thể
nào vượt qua được các trở lực phiền não nếu chưa
thực sự hiểu được chúng". Và Ngài giải thích rằng sự
hiểu biết ở đây chính là khả năng nhận thức về đặc
tính vô thường của các trở lực.
Bằng mọi cách, thiền sư Ajahn Chah đã luôn đề cập
đến khả năng nhận thức định luật vô thường trong các
pháp dù ngôn ngữ diễn đạt nhiều lúc có vẻ như không
đá động gì tới vấn đề đó. Chẳng hạn như đi với Ngài,
cụm từ "Giết chết phiền não" luôn đồng nghĩa với cụm
từ "Nhìn thấy sự vô thường của các phiền não". Ở các
trường thiền miền Ðông Bắc Thái Lan người ta hầu như
đã quá quen thuộc với những ngôn ngữ dạy thiền của
Ngài. Thiền sư Ajahn Chah cho rằng một khi hiểu được
bản chất vô thường của các phiền não thì chúng ta sẽ
có thể dễ dàng vượt qua được chúng.
Người ta thường cho rằng đời sống của một nhà sư
Phật Giáo, đặc biệt là đối với các hành giả thì
ngoài những công phu mang tính tôn giáo, chẳng có
một lao động chân tay nào hết. Ðó là một suy nghĩ
rất nông nổi, bỡi nếu nói theo tinh thần Phật giáo
thì chỉ khi nào ra sức thực hiện những gì thật sự
cần thiết thì đó mới được gọi là làm việc. Một người
tu học chín chắn thì không làm những việc vô bổ, vô
nghĩa. Nếu hiểu được một cách đúng đắn về tinh thần
sinh hoạt đó thì mọi cử động lớn nhỏ của người hành
giả, từ việc tụng niệm cho đến các sinh hoạt cá nhân
đều là những công việc thật sự. Chuyện tu học và các
sinh hoạt thường nhật lúc này coi như chỉ là một.
Theo tinh thần hướng dẫn của thiền sư Ajahn Chah,
ở các thiền viện do Ngài lãnh đạo, các vị sư, kể cả
Ngài, một khi đã làm việc thì luôn nhiệt tình và hết
mình. Làm việc mà vẫn tiếp tục sống trong tinh thần
thiền định. Lần đó thiền sư Ajahn Chah muốn làm một
con đường lên chùa Tum Saeng Pet nằm trên núi, và Sở
Cầu Ðường lúc đầu đã nhận lời giúp đỡ nhưng sau đó
họ lại rút lui. Trước tình cảnh như thế, thiền sư
Ajahn Chah dẫn hết chư Tăng trong chùa của mình lên
tận nơi để bắt tay vào việc đắp đường. Các vị làm
việc liên tục suốt buổi sáng. Ðến giờ khất thực thì
tất cả vẫn ôm bát xuống làng như thường lệ. Sau bữa
ăn, nghỉ ngơi trong khoảng một giờ, các vị lại tiếp
tục làm việc. Ðiều hết sức đặc biệt là trong suốt
thời gian làm việc, không ai thấy Ngài Ajahn Chah
nghỉ ngơi trong một phút nào cả. Ngài vừa phải tiếp
xúc với những người đến thăm viếng, vừa chỉ đạo chư
Tăng làm việc và vẫn tự tay khiêng từng viên đá nặng
để đắp đường. Ngoài ra Ngài còn làm cả những việc
như lấy nước giếng cho chư Tăng dùng. Cứ như vậy
Ngài làm việc cho đến khi nào kiệt sức thì thôi.
Một điều đáng buồn là bản thân thiền sư Ajahn
Chah có như thế nào đi nữa Ngài cũng không được đón
nhận nồng nhiệt ngay trên chính quê hương của mình
là miền Ðông Bắc Thái Lan, cho dầu Ngài đã đem về
đây nhiều đóng góp quan trọng mang cả ý nghĩa xây
dựng nếp sống cho từng người dân địa phương. Phần
lớn dân chúng ở đây vẫn còn quá lạc hậu, họ cứ tiếp
tục giữ lại những cổ tục thấp kém như thờ cúng thú
vật chẳng hạn. Chỉ có một số ít người chịu chấp nhận
pháp môn thiền định, còn phần đông những người khác
thì cứ e sợ pháp môn tu tập này sẽ làm họ mất trí. Ở
miền Ðông Bắc Thái Lan, hầu hết mọi người đều rất
sùng thượng vấn đề thần quyền như bùa chú và các
hiện tượng siêu hình mà không quan tâm gì tới Phật
giáo cả. Người ta đã từ chối Phật giáo để rồi lại
chấp nhận những điều hết sức nghịch lý như luôn sẵn
sàng để giết thú vật làm lễ hiến tế để cầu phước.
Ngài Ajahn Chah đã can đảm phủ nhận những tín ngưỡng
mù quáng như vậy và thế là chưa kịp độ được ai thì
Ngài lại có quá nhiều kẻ thù.
Nhưng dẫu sao cũng phải nhận rằng thiền sư Ajahn
Chah vẫn nhận được lòng thương kính của đông đảo
quần chúng dù Ngài không hề có vẻ cố ý gây tạo cảm
tình với ai và cũng chẳng có hứng thú gì với những
tình cảm đó. Ðối với các đệ tử của mình, ai muốn ra
đi thì Ngài sẵn sàng chấp nhận một cách dễ dàng,
thậm chí còn gởi gắm họ với chỗ họ đã chọn. Còn đối
với những vị sư đệ tử hết lòng thương kính Ngài, nếu
cần, Ngài cũng dễ dàng gởi họ đến các ngôi chùa
khác. Có thể nói rằng ngay trong chính tình cảm thầy
trò, thiền sư Ajahn Chah vẫn luôn lấy tinh thần tập
thể làm trọng. Ngài xem vị sư nào cũng là thành viên
trong giáo hội mà không hề muốn ràng buộc bất cứ ai
bằng thứ tình cảm riêng tư. Cho đến bây giờ tôi vẫn
còn nhớ rõ một kỷ niệm về thiền sư Ajahn Chah vào
một ngày Tết Thái Lan mấy năm về trước, lúc Ngài còn
sống. Hôm đó, theo lệ thường nhân dịp đầu năm, các
Phật tử kéo nhau lên chùa đông đảo lắm. Sau giờ tụng
kinh chiều, Ngài bắt đầu thuyết pháp để sau đó là
tiết mục thiền định tập thể. Lúc gần giữa đêm, có
người vào báo với thiền sư Ajahn Chah là có một vị
hòa thượng từ một ngôi chùa làng đến viếng thăm. Tôi
không sao quên được hình ảnh Ngài Ajahn Chah đã đích
thân bước ra ngoài để tiếp đón vị hòa thượng kia.
Ngài cầm lấy chiếc đèn của vị hòa thượng rồi tự tay
trải tọa cụ cho vị này ngồi. Sau đó Ngài đã quỳ
xuống đảnh lễ vị hòa thượng này bằng ba lần cúi lạy
thật nghiêm túc và hết sức thành kính. Có thể nói đó
là ba cái cúi lạy đẹp nhất mà tôi đã thấy được trong
đời mình. Thiền sư Ajahn Chah đã có một phong cách
khiêm tốn tuyệt vời quá. Ngài đối xử với vị hòa
thượng kia bằng thái độ hạ mình của một vị tân sư
mới xuất gia và điều đáng nói hơn nữa là Ngài đã
thực hiện điều đó ngay trước mặt hàng trăm đệ tử đồ
chúng của mình như chẳng còn màng gì tới những suy
nghĩ về danh phận, địa vị bản thân nữa.
Tôi nghĩ rằng thiền sư Ajahn Chah sở dĩ có được
cái phong cách sống bất phàm đó chính vì Ngài đã
không tự xem mình là một con người Riêng Biệt, Bất
Biến nữa mà Ngài luôn có thể trở thành bất cứ con
người nào mình muốn. Ðôi lúc chúng ta có thể thấy
Ngài là một con người cả quyết, cứng rắn nhưng nếu
cần thì Ngài cũng có thể là một vị thiền sư thật mềm
mỏng, dễ gần. Bản thân Ngài là người luôn tự tĩnh,
sống nhiều về chiều sâu , nhưng trong từng cử chỉ và
sinh hoạt lớn nhỏ của Ngài đều luôn nhắm đến niềm
hạnh phúc cho người khác. Thiền sư Ajahn Chah là một
người vô cùng sâu sắc và tế nhị khi phải đối diện
với những vấn đề thuộc quan điểm tư tưởng của người
khác, dầu đó là cá nhân hay một tông phái. Chẳng hạn
như lần đó có người đến hỏi Ngài về vấn đề A La Hán
với Bồ Tát và muốn được Ngài cho biết ý kiến bởi từ
trước đến giờ giữa Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông
vẫn có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vừa
nghe xong câu hỏi, Ngài Ajahn Chah thong thả trả
lời:
- Ðừng ham là A La Hán hay Bồ Tát và cũng đừng
muốn mình trở thành bất cứ cái gì hết. Quý vị hãy
coi chừng mình sẽ bị đau khổ bởi những cái gọi là A
La Hán, Bồ Tát hay chi chi đó.
Tôi có cảm giác rằng thiền sư Ajahn Chah đã không
muốn mình là bất cứ cái gì cả. Ngài đã tự thể hiện
tinh thần chánh pháp qua những giá trị tu học ở
chính mình mà điều đó thì rõ ràng là không hề có ý
nghĩa xây dựng, đắp tô một con người nào hết.
Ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ với Ngài, tự nhiên
tôi đã có một niềm tin thật là mãnh liệt vào sự
hướng dẫn của Ngài, đặc biệt là đối với tinh thần vô
kỷ vong thân mà Ngài đã thể hiện. Tôi đã vô cùng
thích thú khi nhận ra tinh thần đó ngay trong chính
những ngày tháng tu học của mình. Có thể nói thiền
sư Ajahn Chah đã tự hiểu được rằng mọi rắc rối trong
đời sống đều được sản sinh từ chính bản thân mỗi
người. Và nhận thức đó không hề là một kiến thức
mang tính giáo điều nữa, nó phải là cái khả năng
tinh thần mà mỗi người phải tự thể nghiệm lấy. Chính
nhận thức đó sẽ giúp cho mọi sự trên đời có vẻ dễ
chịu hơn.
Có thể nói đó là thành quả quan trọng nhất mà
chúng ta có thể đạt được qua mọi thăng trầm của cuộc
tu. Cái quan trọng trong cuộc tu nằm ở chỗ chúng ta
biết quay về với chính mình và thấu suốt bản thân.
Giá như tôi cứ nhớ hoài những lời dạy về vấn đề ngã
chấp và vô minh mà mình đã được tiếp thu rồi tu tập
đúng theo như vậy thì tôi tin chắc rằng tôi có thể
tự biến mình một cách tự nguyện cho sư phụ của tôi.
Thái độ vong thân này sẽ mang lại cho chúng ta một
nguồn đạo lực to lớn bởi vì đây cũng là một cách suy
tưởng về ân đức Tăng Bảo, một trong những đề mục có
ý nghĩa trưởng dưỡng niềm tin cho chúng ta.
Tôi mong sao quí vị ở đây sẽ tìm thấy trong buổi
nói chuyện này của tôi một chút giúp sức nào đó cho
cuộc tu của quý vị.
-ooOoo-
|
Ðại đức
Vajiro
Nếp
sống chia sẻ
Tiểu sử:
Ðại đức Jajiro (Pill Sunton) sinh năm 1953 tại
Kuala Lumpur, Malaysia. Ðại đức đã từng học tại
trường Lancing College, rồi sau đó lại theo học
ngành kinh tế ở đại học Bath University. Cả hai
trường này đều ở Anh Quốc và năm 1974 đại đức đã tốt
nghiệp đại học với số điểm xuất sắc. Vào đúng thời
gian này, một người bạn đã rủ đại đức đến tham dự
một thiền khóa mười ngày tại trung tâm Phật giáo
Oakenholt. Sau đó, đại đức đã tiếp tục dự thêm các
thiền khóa khác trong thời gian 1976 và 1977. Năm
1977, nghe tin thiền sư Ajahn Chah cùng Ngài Ajahn
Sumedho sang viếng thăm Oakenholt, đại đức đã đến
chùa Hampstead để gặp gỡ hai vị. Sau lần gặp gỡ này,
đại đức đã là một thiền sinh xuất sắc. Năm 1978 đại
đức xin được làm giới tử và sống ở Chithurst trong
ít lâu trước khi đi qua chùa Pah Pong ở Thái lan.
Năm 1979 đại đức tu sa di và một năm sau thì thọ cụ
túc giới với Ngài Ajahn Chah.
Ðại đức Vajiro đã quay lại Anh quốc năm 1984 và
đã cùng các huynh đệ xây dựng trung tâm phật giáo
Amaravati. Hiện nay đại đức đang sống tại Chithurst.
Bài viết dưới đây là phần trích lại từ một thời
pháp của đại đức tại Chithurst năm 1988.
Nếp
Sống Chia Sẻ
Cảm giác phân biệt là một cảm nghiệm về sự hiện
hữu của mọi loài chung quanh mình. Chúng ta có thể
nhận ra điều đó trong chính bản thân hoặc thậm chí
trong cả các loài thú vật. Cái ý thức về người này,
vật nọ hoặc tự xác định lấy sự khác biệt giữa mình
với người khác, đó chính là thái độ phân biệt. Chúng
ta luôn cố gắng bằng đủ mọi cách để trang bị và nâng
cấp tinh thần phân biệt đó của mình. Có thể nói rằng
mọi nỗ lực đó của chúng ta đều là những hình thức
khác nhau của sự chấp thủ. Chúng ta chấp thủ đủ mọi
thứ và luôn tự tạo cho mình một môi trường để duy
trì nó. Cái gì chúng ta cũng muốn giữ lại cho riêng
mình cả, từ cái nhỏ nhoi cho đến cái to tát nhất.
Như đã nói thì càng chấp thủ cũng chỉ có nghĩa là
chúng ta càng củng cố thêm cái tinh thần phân biệt.
Một hình thức tinh vi khác của sự chấp thủ tức
tinh thần phân biệt chính là thái độ Ðồng Hóa, Thỏa
Hiệp. Kể cả trường hợp chúng ta có cố tình dứt bỏ
một cái gì đó thì trong tự đáy lòng, chúng ta vẫn
nghĩ đến một sự đánh đổi. Như vậy thì cuộc tu của
chúng ta lúc này cứ giống như một kiểu đi chợ. Chúng
ta chịu mất tiền để có được một thứ gì đó. Tinh thần
tu tập như vậy chỉ giữ lại được ý nghĩa mặc cả và
tính toán và chúng ta lúc này đã tự vô tình tạo thêm
cho mình một chướng ngại trên đường tu với bức rào
cản của tinh thần phân biệt.
Vấn đề chưa hết đâu, trong những trường hợp đặc
biệt hơn, thì tinh thần chấp thủ, phân biệt còn được
ngụy trang trong một tấm lòng hào sảng vị tha. Với
nó, người ta có thể nhận thức rõ ràng cái tinh thần
phân biệt không cần thiết kia để có thể nuôi lớn một
lý tưởng sống chia sẻ một cách trọn vẹn. Có điều là
tinh thần cởi mở đó lại cũng chỉ là một sự sắp xếp
kín đáo để đánh đổi được cái niềm vui của một người
không chấp thủ!
Như vậy thì trong tinh thần phân biệt, mọi nỗ lực
kể cả nỗ lực vượt thoát chính nó chỉ là những nguồn
sức mạnh nuôi lớn nó mà thôi. Ý tưởng giải thoát đặt
trên cơ sở của sự chấp thủ thì trước sau gì cũng chỉ
là một vòng lẩn quẩn. Trong trường hợp đó, có lẽ bố
thí là một pháp môn hữu hiệu nhất để chúng ta có thể
vận dụng trong ý nghĩa đối trừ tư tưởng phân biệt. Ở
đây tôi muốn nói tới một thái độ bố thí thật sự, một
cách cho ra mà không cần nhận lại. Ðó không phải là
một cách cho mang tính mặc cả hay ban phát. Cho chỉ
có nghĩa là cho, là buông tay một cách hết mình mà
không hề muốn giữ lại cho bản thân bất cứ cái gì.
Ðem chia sẻ cho ai đó một món đồ, thì chúng ta cũng
trao hết cho họ tất cả tấm lòng của mình, không nghĩ
đến chuyện thù tạc và đây mới chính là cách cho mà
tôi muốn nhấn mạnh ở đây.
Có lắm trường hợp chúng ta bố thí nhưng bố thí
một cách khiếm khuyết, một kiểu cho không được trọn
vẹn. Chúng ta có bao giờ chịu tìm hiểu về ý nghĩa
của pháp môn bố thí để có thể hoàn chỉnh nó ngay
trong cuộc tu của mình, đồng thời cũng tìm hiểu luôn
ý nghĩa công đoạn của pháp môn bố thí trong suốt quá
trình tu học trước khi thật sự giải thoát. Pháp môn
bố thí là chặng đường đầu tiên của chặng đường tu
đạo Ba La mật. Trên ý nghĩa tổng quan thì chúng ta
đều hiểu rằng bố thí Ba La Mật là pháp Ba La Mật
cuối cùng mà Bồ Tát bổ túc trước khi thành Phật
nhưng trên văn bản kinh điển thì ta lại thấy pháp
môn Ba La Mật này được xếp ở vị trí đầu tiên.
Tôi nhớ có lần Ngài Thiền sư Buddhadàsa đã từng
bảo rằng nếu chúng ta có thể hoàn tất một pháp môn
Ba La Mật nào đó thôi thì các pháp môn Ba La Mật còn
lại cũng sẽ được thành tựu trọn vẹn theo. Tôi nghĩ
rằng câu nói đó rất quan trọng khi chúng ta bàn về
phép bố thí, bởi ít nhất chúng ta cũng có thể thấy
rằng một khi thực hiện pháp môn bố thí với tâm trạng
hoàn toàn cởi mở, vô cầu vô chấp thì ngay giây phút
đó các đức tánh khác (ở đây ta có thể gọi thẳng là
các Ba La Mật) cũng cùng lúc được thực hiện hoàn
chỉnh.
Nói một cách dễ hiểu, sự có mặt của các pháp Ba
La Mật trong khoảnh khắc bố thí chính là từng khía
cạnh tâm lý tương quan. Trí Tuệ Ba La Mật ở đây là
khả năng nhận biết một cách rõ ràng về thời điểm,
nơi chốn và những gì được đem cho. Chân Thật Ba La
Mật lúc này chính là thái độ nghiêm cẩn và trân
trọng khi bố thí. Nhẫn Nại Ba La Mật trong trường
hợp này chính là khả năng chấp nhận một cách tự
nguyện những giới hạn về tâm lý hoặc hoàn cảnh bất
trắc nào đó có thể xảy ra trong lúc bố thí. Ly Dục
Ba La Mật ở đây là thái độ khước từ khái niệm sở
hữu. Nghị lực nâng bước cho những khía cạnh tâm lý
trên chính là Tinh Tấn Ba La Mật. Tinh thần độ lượng
không phân biệt trong nghĩa cử bố thí chính là Từ
Tâm Ba La Mật và Hành Xả Ba La Mật. Còn Bất Thối Ba
La Mật (Chí Nguyện Ba La Mật) thì dĩ nhiên không thể
thiếu được trong lúc này rồi. Ðó chính là thái độ
dứt khoát không do dự để có thể chia sẻ cái mình có
đến người khác mà không phân vân lưỡng lự.
Ðến đây thì chúng ta đã có thể nhận ra được sự
hiện diện cùng lúc của các pháp Ba La Mật ngay trong
chính giây phút thực hiện bố thí Ba La Mật rồi, vậy
thì chúng ta cũng nên tự hỏi lòng mình xem đã có lần
nào biết cho ra một cách trọn vẹn như vậy hay không.
Nhớ lại hồi còn ở Thái Lan tôi đã phải khó khăn lắm
mới có được một bài học về tinh thần hào sảng. Lúc
mới tu, trong những giờ đi khất thực, tôi đã thấy
những ông già bà cả trong thôn xóm cứ dắt nhau ra lề
đường đặt bát cho tôi đủ thứ hết: Cơm, bánh, trái
cây, đường, kẹo... có thể nói là họ có cái gì cho
cái đó. Nhìn thấy nét mặt hân hoan của họ tôi cứ suy
nghĩ vẩn vơ mà không hiểu được tại sao người ta lại
có thể tốt bụng với tôi đến vậy, tốt bụng một cách
thiệt thà đối với những người chưa hề giúp đỡ được
gì cho mình. Tôi thấy tất cả những người đến đặt bát
như đều có chung một niềm tịnh tín thật kỳ lạ. Thậm
chí có những lần không thấy chúng tôi xuống làng
khất thực, các Phật tử địa phương còn dẫn nhau lên
chùa hỏi đủ chuyện. Họ sợ chúng tôi bị bệnh hay gặp
chuyện gì. Thái độ của họ càng làm tôi ngạc nhiên
hơn. Lúc đó tôi đã tìm gặp đại đức Jararo rồi nói
hết những suy nghĩ của mình. Tôi nhớ đại đức Jararo
đã nói với tôi một câu thật đơn giản nhưng cũng nhờ
đó mà tôi có được một bài học thật hay:
- Sư sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa của cách
Cho nếu sư chưa học được cách Nhận, và sư sẽ không
thể nào hiểu được ý nghĩa của cách Nhận nếu sư chưa
hiểu được ý nghĩa của cách Cho.
Có đến hai cách cho và cũng có hai cách nhận.
Cách nhận thứ nhất là bằng thái độ tri ơn, sự cảm
nhận được tấm lòng của người đã san sẻ cho mình và
cách nhận thứ hai là ngửa bàn tay mà thấm thía tinh
thần xả kỷ cho kẻ giúp mình để từ đó tự có một thái
độ tâm lý kính phục. Khi ta biết kính phục người
khác thì cũng có nghĩa là một điều hết sức cần thiết
để giúp ta vượt qua được tinh thần phân biệt.
Cho, cũng có nhiều cách. Ta có thể chia sẻ cho
người khác rất nhiều thứ như thức ăn, thuốc men, áo
quần, tiền bạc và cả những thời gian, công sức hoặc
thậm chí chỉ một tấm lòng kín đáo thôi. Nhưng không
phải lúc nào cho cũng có nghĩa là chối bỏ sở hữu bởi
có nhiều lúc cho cũng là một hình thức chấp thủ, mặc
cả. Cách cho quan rọng nhất là cách cho bằng thái độ
mở rộng bàn tay, trải rộng tâm hồn và không nghĩ nhớ
gì tới những cái mà mình sẽ có được từ thái độ hào
sảng đó. Ðó là một cách cho hồn nhiên, tự tại Và cho
ở đây chỉ có nghĩa là cho ra.
Nói như vậy, cách cho đẹp nhất chính là cách cho
bằng tinh thần của thiền quán: Chỉ biết cho đi mà
không hề nghĩ đến việc nhận lại. Cho chỉ biết là
cho. Trong toàn bộ pháp môn thiền quán cũng đã dạy
ta như thế: Hãy luôn sống Tỉnh Thức và Chánh Niệm
đối với tất cả những gì đang xảy ra. Người hành giả
chỉ sống trọn vẹn với từng giây phút hiện tại mà
không bận tâm mong đợi bất cứ cái gì. Bởi chính thái
độ mong đợi đó, dù là mong đợi một thành quả tu học
cũng vẫn cứ là một thái độ mặc cả, chấp thủ và phân
biệt trong khi chính chúng lại là những cái mà chúng
ta cần phải vượt qua.
Một nội tâm chuyên chú là điều mà chúng ta cần
phải thực hiện trong tất cả mọi thời điểm. Chúng ta
chú niệm vào hơi thở nhưng không chờ bất cứ cái gì
từ nó. Chúng ta chú niệm vào từng động tác, cử chỉ
của chính mình, chú ý vào từng góc cạnh của đời sống
sinh hoạt bằng một tâm hồn thật sự rộng mở: Ghi nhận
tất cả rồi để mặc chúng trôi đi bằng thái độ của một
người ngắm nhìn dòng nước đang xuôi chảy: Nhận thức
rõ ràng sự biến dịch của nó mà không mong đợi nó sẽ
mang lại cho mình một hoa trái hay bất cứ thứ quà
tặng nào khác. Tinh thần tu tập này cũng là một cách
xả bỏ, bố thí. Có hiểu được một cách tận tường như
vậy chúng ta mới thấy được pháp môn bố thí là cả một
vấn đề tu học quan trọng, một con đường dẫn đến sự
hoàn chỉnh nhân cách và đạo hạnh tuyệt vời nhất.
Tôi nghĩ rằng tất cả những điều vừa nói và tất cả
những gì mà chúng ta cần phải thực hiện không phải
chỉ đơn giản được đi ra từ những trang kinh điển mà
ngược lại tôi nghĩ rằng một phần lớn vấn đề phải
được chúng ta giải quyết ngay trong chính cuộc tu
của mình. Và lời sau cùng, tôi nhắc lại, Biết Cho là
bước khởi hành đồng thời cũng là bước đi cuối cùng
của người tu học.
-ooOoo-
|
Lá thư
cho những người tìm đạo
Bài viết sau đây của
Ðại đức Kittisaro, đã được đăng tải trên tờ báo
riêng Newsletter của chùa Devon Vihàra vào tháng 9
năm 1987.
Thân gởi các pháp hữu trên toàn thế giới.
Trước hết tôi xin gởi lời chào đầy đạo tình đến
mọi người để có thể bắt đầu đi vào lá thư. Có thể
tôi đã có dịp gặp gỡ các vị tại ngôi chùa này vào
mùa hè năm nay hoặc trong một buổi công giảng nào đó
của tôi nhưng tôi vẫn chưa có dịp viết một lá thư để
gởi đến các vị. Tôi nghĩ rằng quả là một nhân duyên
lớn khi từng người trong số chúng ta tự thấy được
rằng mình là một thành viên có mặt trong một tập thể
đông đảo cùng hướng về cứu cánh giải thoát. Sự thành
tựu một tập thể hướng thượng như vậy chính là sức
mạnh của tăng chúng. Chữ Pàli "Sangha" chỉ có nghĩa
đơn giản là một nhóm đông, một cộng đồng, một sự góp
mặt của nhiều người. Còn nói riêng về thuật ngữ Phật
giáo thì danh từ này được sử dụng với một ý nghĩa
rất chuyên biệt.
Tăng chúng là một trong ba ngôi báu , một trong
ba đối tượng để tất cả Phật giáo đồ quy ngưỡng bằng
cách đưa cả ba thần tượng này vào trong chính cuộc
tu của mình ở từng phút từng giây thông qua một lời
phát nguyện quy y.
Vậy thì chư Tăng chúng trong lời nguyện đó là gì
và có ý nghĩa như thế nào trên hành trình giải thoát
của chúng ta? Nói một cách chính xác nhất, Tăng
chúng trong trường hợp này ám chỉ cho tất cả những
cá nhân đã thành tựu Chánh Tri Kiến. Nói khác đi, đó
là một tập thể của các vị thánh nhân bất luận Tăng,
Tục, nam phụ lão ấu. Và điều đặc biệt hơn nữa, các
thành viên trong tập thể này rất có thể là những
người chưa từng được xem là Phật tử. Miễn sao đó là
những người có khả năng làm chủ được chính mình và
toàn bộ đời sống sinh hoạt của họ luôn được điều
động bởi trí tuệ như thật.
Từng người trong Thánh chúng là những vị đã thấu
đáo được nguyên lý Tứ Ðế. Các vị chứng ngộ được cứu
cánh thoát khổ và cảm nghiệm trọn vẹn sự an lành
tuyệt đối của một người giác ngộ. Ngoại trừ ra bậc A
La Hán , các tầng Thánh còn lại phải tiếp tục tu học
để nâng cao trình độ Chánh Tri Kiến của mình. Con
đường đó của các Ngài cũng hoàn toàn giống như hành
trình tu học của các phàm phu chúng ta. Các Ngài vẫn
phải liên tục tri nhận một cách chín chắn từng phút
giây thực tại theo đúng tinh thần của pháp môn Tứ
Niệm Xứ.
Nói gọn lại Thánh chúng hay tập thể Tăng chúng
Thánh nhân là bao gồm những con người trí tuệ, những
bậc hiền giả thật sự.
Các Ngài cũng vẫn là những con người bình thường
như chúng ta nhưng tại sao lại được xem là một trong
ba đối tượng để chúng ta quy ngưỡng? Ðây là một câu
hỏi rất quan trọng nhưng câu trả lời thì rất đơn
giản: Chính vì các Ngài là những con người có thật,
cũng bằng xương bằng thịt, chúng ta có thể gặp gỡ
được các Ngài trong đời sống thường nhật và nhờ vậy
các Ngài đã mặc nhiên trở thành một biểu tượng sống
động cho con đường giải thoát mà chúng ta đang phải
đi qua. Chính tính cách cụ thể và điển hình đó của
các Ngài đã dễ dàng tác động vào chúng ta một cách
hiệu quả trong khi khái niệm về Phật bảo và Pháp bảo
thì đối với phần đông xem ra có vẻ xa vời và trừu
tượng hơn nhiều. Chính Thánh chúng đã mang lại cho
cuộc đời những lời dạy, có thể bằng ngôn từ, có thể
bằng nhân cách.
Phải nhớ thêm rằng một nhãn hiệu hay một thông
tin mang ý nghĩa tôn xưng hoặc phủ nhận ai đó là
Thánh nhân hay phàm phu, đối với chúng ta quả thật
không cần thiết. Bởi vì cho dầu có tò mò đến mấy,
trong tự thâm tâm, chúng ta cũng không sao tránh
được một nỗi hoài nghi về những thông tin và nhãn
hiệu đó.
Vấn đề quan trọng nhất chính là việc chúng ta tự
hàm dưỡng lấy cho chính mình cái khả năng cảm nhận
và đánh giá bằng chính trí tuệ bản thân. Chính khả
năng đó mới khả dĩ đem lại cho chúng ta những người
bạn tốt. Một người bạn tốt có đủ những tiêu chuẩn đã
nói ở phần trước luôn được Ðức Phật xếp vào hàng ngũ
tăng chúng của Ngài. Ngài dạy đó là những vị "Xứng
đáng nhận được các tặng vật, xứng đáng nhận được các
lễ phẩm, các cử chỉ tôn kính của người khác. Các vị
là phước điền vô thượng cho đời". Và dầu có nói như
thế nào đi nữa thì Tăng bảo vẫn là một chỗ nương nhờ
cho những người tu học. Chúng ta đừng bao giờ quên
điều đó.
Như đã nói, theo kinh văn thì Tăng chúng được ám
chỉ cho các vị tỳ kheo và tỳ kheo ni nhưng nếu giải
thích một cách rốt ráo thì từ ngữ tăng chúng có
nghĩa rộng hơn, gồm luôn tất cả những ai thành tựu
được Chánh Tri Kiến. Bởi một điều hết sức rõ ràng là
lá y với chiếc đầu không tóc xem ra vẫn chưa đủ để
đảm bảo những giá trị trí tuệ và đức hạnh. Nếp sống
xuất gia chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện
một cách nghiêm túc và hết mình để nhờ vậy giới tu
sĩ mới có điều kiện phát triển đời sống nội tâm.
Thực tế đã cho ta thấy rằng hình thức sống không
quan trọng, mà tinh thần sống mới là điều quyết định
giá trị của một tập thể hay cá nhân. Từ đó suy ra,
cái gọi là Tăng chúng trong chùng mực nào đó, không
hề bị giới hạn trong một màu áo hay nhãn hiệu tôn
giáo nào cả.
Như vậy, ở một định nghĩa rộng rãi và chính xác
nhất, ý nghĩa của chữ Tăng Chúng chỉ được qui định
từ chính nội dung của mỗi cá nhân trong tập thể mà
thôi. Nhiều cá nhân như vậy sẽ hình thành nên cái
gọi là Tăng Bảo, Tăng Chúng. Trong khi thế giới phàm
phu là một dòng thác lũ xô bồ và tạp loạn với đủ thứ
tình cảm, định kiến và thống lụy thì thánh chúng của
Ðức Phật quả là một vùng biển lặng, bình yên, thâm
sâu mà vẫn tươi mát đủ mang lại cho người náu nương
một sự yên tâm, an lòng. Tăng Chúng là những người
bạn tốt, những người thầy có nhiệt tâm để nâng bước
và hoàn chỉnh chúng ta. Niềm tin của chúng ta đặt
nơi Tăng Chúng phải được xây dựng để thành ra một
phần máu xương của đời sống, những tần số, tín hiệu
chính xác nhất. Trình độ tu chứng của mỗi người
không thể được đánh dấu bằng những con tem xác
nhận.. Nếu chúng ta cứ dại khờ chạy theo một nhãn
hiệu nào đó để cố tin rằng ông này đã chứng Dự Lưu,
bà kia là vị Bất Lai... thì xem ra chúng ta vẫn cứ
là một người mù lòa bám theo tay người khác và suốt
đời sẽ phải bị đau đầu vì những con dấu hỏi vô ích.
Nói vậy có nghĩa là chúng ta không cần thiết phải
làm thỏa mãn tính tò mò của mình bằng cách tin bừa
vào quả vị chứng ngộ của ai nhưng điều này cũng
không có nghĩa là chúng ta chối bỏ hoàn toàn việc
xác nhận ai đó là bậc hiền trí, một vị thiện hữu,
một người thầy khả kính. Tuy không nhắm mắt tin theo
lời người khác để vội vã đánh giá một các nhân nào
nhưng bằng vào khả năng cảm nhận của bản thân, nếu
chúng ta xác nhận được ai đó là đối tượng đáng để
cho mình học hỏi rồi tôn kính và gần gũi họ, thì đây
cũng là một điều hết sức quan trọng. Bởi chúng ta
cũng còn nhớ rằng Ðức Phật đã từng dạy người Phật tử
nên thân cận các bậc hiền trí hơn là những người
thiếu trí. Thái độ sống nhờ cậy này của chúng ta
không còn là một sự theo đuổi mù quáng nữa, mà đây
chính là những bước đầu để chúng ta học cách xác
định cái gì là thiện ác, đúng sai thông qua khả năng
phản ánh của tự tâm. Rồi cũng từ chặng đường đó,
chúng ta sẽ bắt đầu học được cách trân trọng những
đức tánh giá trị để ân đức Tăng bảo lúc này sẽ thành
ra một nguồn đạo lực quan trọng cho chúng ta. Chúng
ta sẽ trở nên thông minh hơn và từ cảnh giới tư
tưởng của phàm phu, chúng ta sẽ tiếp nhận được những
hướng dẫn mang nội dung vượt thoát. Chúng ta sẽ nghe
được những giáo lý như thật về Ta, về Người, về Thời
Gian, về những Khát Vọng và sau cùng là được nghe về
tất cả những gì đã làm nên sự hiện hữu chính mình.
Ngay trong lời phát thệ quy y Tăng bảo coi như
chúng ta đã nói lên ước nguyện tìm thấy cho mình
người bạn lành trong nội tâm. Tăng chúng trong lòng
ta không còn là những đối tượng tương giao mang tính
chủ khách nữa, ở đây Tăng chúng đã trở thành một thứ
đạo tình vô phân biệt: Tăng chúng là biểu tượng cho
các đức tính và các đức tính dĩ nhiên phải được xem
là một phần nội tâm của chúng ta. Thậm chí tôi còn
muốn tất cả các bạn hãy đọc lá thư này bằng cái đạo
tình đó nữa.
Với tất cả những gì tôi đã nói về Tăng Bảo tức
Tăng Chúng nãy giờ, tôi mong tất cả các bạn hãy cùng
tôi đi xa hơn nữa trong định nghĩa này. Nếu Tăng
Chúng đã được hiểu là những biểu trưng cho các đức
tính thì ngay khi có lòng quy ngưỡng Tăng chúng,
chúng ta đã đồng thời nhắc lại lời phát thệ quy
ngưỡng Phật bảo và Pháp bảo thêm một lần nữa. Như
vậy hễ nhắc đến Tăng bảo thì chúng ta không chỉ đơn
giản nói tới một cá nhân hay tập thể nào hết, mà sâu
rộng hơn, chúng ta phải nhớ tới tất cả những gì được
xem là nguồn đạo lực cho cuộc tu của mình.
Mùa hè năm nay tôi đã có được một cơ hội thật
tuyệt vời để cảm nghiệm trọn vẹn ý nghĩa của hai chữ
"Tăng Chúng": Ðó là từng buổi hướng dẫn các thiền
sinh, từng giờ đàm luận Phật pháp, những buổi hành
lễ chung với chư tăng và các cô nữ tu học trò tôi và
đặc biệt là với đại đức Sumedho, người thầy khả kính
của tôi. Tôi đã học khá nhiều điều thú vị từ sự góp
mặt của từng người trong tập thể. Nhớ lại chuyện từ
hồi xưa cho đến bây giờ, kể từ ngày bỏ nhà ra đi để
trở thành một tu sĩ với lý tưởng tìm đạo giải thoát,
tôi đã được Tăng chúng giúp đỡ rất nhiều. Các bạn có
biết không, trên suốt con đường tu học của bản thân,
chúng ta không sao phủ nhận được cái đạo tình của
các pháp hữu mà ở đây tôi muốn các vị gọi là Tăng
chúng. Dù có ở đâu và với trình độ tu học như thế
nào, chúng ta vẫn luôn là bé bỏng trong sự chở che
của Tăng Chúng. Với sự trợ lực của Tăng Chúng, đời
tu của chúng ta sẽ mỗi lúc một tốt hơn và chúng ta
cũng sẽ ngày một xứng đáng với tất cả ân tình của
đời sống.
Nói vậy có nghĩa là trong Tăng Chúng luôn có Tăng
Chúng và chính Tăng Chúng tạo ra Tăng Chúng. Chưa
hiểu gì về Tăng Chúng, chưa được sống trong cái tình
pháp hữu thật sự thì coi như chúng ta vẫn cứ mãi tự
cô lập mình trong một cái lồng kín Tôi và Của Tôi
vốn mong manh như một bong bóng nước. Tự nhốt mình
trong một thế giới như vậy, không gian sinh hoạt của
chúng ta và cả thời gian tồn tại của chúng ta coi
như đã bị thu hẹp, niềm hạnh phúc có được từ tha
nhân cũng vì vậy mà bị giới hạn. Tôi nghĩ rằng các
bạn cũng có những suy nghĩ như tôi vừa nói.
Nào, bây giờ chúng ta hãy thử kiểm tra lại cảm
giác của mình khi có một nếp sống nội tâm hòa nhập
với Tăng Chúng, một tập thể gồm những người hiền trí
và tịnh lạc. Như đã nói, Tăng Chúng luôn đem lại cho
chúng ta một sức mạnh trí tuệ và niềm hạnh phúc có
được từ thành quả tu học đó sẽ giúp chúng ta được
thư giãn, niềm tin của chúng ta càng được củng cố.
Phải nói rằng đối tượng của niềm tin đó là một sức
mạnh rất lớn. Ta hãy thử nghĩ xem, với những định
nghĩa trên đây thì số lượng Tăng Chúng quả là vô hạn
và từng người trong tập thể đó đều là những cá nhân
sống tỉnh thức trước mọi bản chất của cuộc đời trong
từng giây phút. Ðối với một tâm hồn bị ràng buộc
trong những định kiến phân biệt thì một sự hòa nhập
như vây chính là một nguồn đạo lực vô cùng quan
trọng. Tất nhiên là trong đời sống của chúng ta vẫn
còn trăm thứ nhiêu khê khác nhưng với một niềm tin
vào Tăng Chúng, chúng ta vẫn có thể tự tại tu học.
Niềm tin vào Tăng Chúng là một thứ đạo tình mang giá
trị của một nguồn đạo lực giúp ta xây dựng được
Chánh Tri Kiến và phá vỡ được cái không gian tù túng
của ngã chấp mà từ bấy lâu nay chúng ta vẫn bị giam
giữ trong đó.
Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta dĩ nhiên
không thể dễ dàng chọn hay tránh những người đồng
trú một cách như ý. Tuy nhiên giữa tất cả những
nghịch cảnh và thử thách khốc liệt nhất chúng ta vẫn
có thể tìm thấy cho chính mình một sức mạnh tu học
từ thái độ hiểu biết và quy ngưỡng Tăng Chúng. Tăng
Chúng theo đúng như định nghĩa mà tôi đã nói ở trước
thì luôn có thể hiện diện ở bất cứ nơi đâu và vào
lúc nào. Ðôi lúc chúng ta nếu cần thì cũng tạm thời
quên đi những người chung quanh mình nếu họ không
thật sự có được những giá trị của một thành viên
trong Tăng Chúng. Ðối với chúng ta lúc này, hình
bóng Tăng Chúng đã được thiết lập vững chắc ngay
trong nội tâm, bất cứ ai, kể cả những người trong
gia đình của chúng ta cũng đều có thể là Tăng Chúng
được cả và ai cũng có thể giúp chúng ta những lời
dạy quý giá. Nói tóm lại, chính niềm tin nơi Tăng
bảo đã biến chúng ta thành ra một bậc hiền giả đức
hạnh và đồng thời cũng mang lại cho chúng ta một bậc
hiền giả đức hạnh. Ðó là một hiền giả luôn im lặng
nhưng nói rất nhiều và bổn phận của chúng ta là phải
biết trân trọng, tri ân bằng tất cả chân thành.
Mong sao các bạn luôn tìm thấy cho mình một người
pháp hữu như vậy.
Thân ái,
Tỳ kheo Kittisaro.
-Hết-
-ooOoo-
|
|