PHƯỚC THIỆN
(PUÑÑAKUSALA)
Trong tam giới, con người nói riêng, tất cả chúng sinh nói chung, thân tâm được
an lạc đó là quả của phước thiện.
Người có nhiều phước thiện cho quả, trong đời sống được nhiều an lạc, có ít khổ
cực.
Người có ít phước thiện cho quả, trong đời sống được ít an lạc, có nhiều khổ
cực.
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không
phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới
có thể biết người nào có phước thiện.
Trong đời này, có số người được giàu sang phú quý, có chức cao quyền lớn...,
người ta thường gọi: "người ấy có phước lớn"; nên hiểu rằng đó là cách gọi theo quả
phước thiện, không phải gọi theo nhân phước thiện.
Nếu muốn gọi cho đúng và chính xác thì nên gọi: "người ấy hưởng quả phước lớn".
Như bà Visākhā gọi ông phú hộ Migara, cha chồng của bà "dùng đồ cũ", có nghĩa
là hưởng quả của phước thiện bố thí từ kiếp trước; trong kiếp
hiện tại không tạo nhân phước thiện bố thí.
Trong bộ Petavatthu: Tích ngạ quỷ, có những ngạ quỷ tiền kiếp đã từng là phú hộ.
Cho nên, kiếp hiện tại, người nào được giàu sang phú quý,... kiếp vị lai người
ấy không chắc được giàu sang phú quý... như vậy. Bởi vì, sự giàu sang phú
quý... là quả của phước thiện bố thí; khi hưởng quả giàu có, mà
không tạo thêm nhân phước thiện bố thí, có tâm keo kiệt bỏn xẻn
trong của cải ấy, sau khi chết do năng lực ác nghiệp cho quả tái sanh vào hàng
ngạ quỷ, chịu cảnh đói khát, khổ cực; dầu do thiện nghiệp nào đó cho quả được
tái sanh làm người, thì cũng là người nghèo đói, thiếu thốn khổ cực. Vậy, chỉ
có phước thiện cho quả mới hỗ trợ cho chúng sinh được an lạc mà thôi.
Phước Thiện Là Gì?
Theo Phật giáo: Danh từ Phước dịch ra từ Pāḷi là Puñña.
Danh từ Thiện dịch ra từ Pāḷi là Kusala.
Puñña: phước: có nghĩa là trạng thái làm cho tâm của mình được
trong sạch khỏi phiền não. Ngược với phước là tội (pāpa) là
trạng thái làm cho tâm bị ô nhiễm bởi phiền não.
Quả báu của phước là sự an lạc thân – tâm.
Kusala: thiện: có nghĩa là trạng thái tiêu diệt ác pháp. Ngược với
thiện là bất thiện (akusala) chính là ác pháp.
Quả báu của thiện là sự an lạc thân – tâm.
Cho nên, phước và thiện đồng nghĩa với nhau.
Phước (puñña) thường thấy trong Kinh tạng, có nghĩa hẹp.
Thiện (kusala) thường thấy trong Vi diệu pháp tạng, có
nghĩa rộng.
Phước sanh lên do bởi nhiều nhân duyên, trong Puññakiriyāvatthu: Hành động tạo
nên phước thiện, có 10 pháp:
1- Bố thí (dāna).
2- Giữ giới (sīla).
3- Hành thiền (bhāvanā).
4- Cung kính (apacāyana).
5- Giúp đỡ trong việc thiện (veyyāvacca).
6- Hồi hướng – chia phước (pattidāna).
7- Hoan hỉ với phước của người khác hồi hướng (pattānumodanā).
8- Thuyết pháp (dhammadesanā).
9- Nghe pháp (dhammassavanā).
10- Chánh kiến (diṭṭhijukamma).
Ðó là 10 pháp để phát sanh, tạo nên phước thiện.
Tập sách nhỏ này đề cập đến phước thiện bố thí.
PHƯỚC THIỆN BỐ THÍ (PUÑÑKUSALA)
Bố thí để tạo phước thiện là thí chủ sử dụng của cải tiền bạc... và cả sự hiểu
biết của mình đem ban bố cho người khác với thiện tâm tế độ, mong mỏi sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến cho người khác, chúng sinh khác. Sự bố thí như
vậy gọi là phước thiện bố thí.
Sự bố thí để trở thành dục giới thiện nghiệp, thí chủ cần phải có tác ý thiện tâm
(kusalacetanā) trong sạch, không bị tham, sân, si... làm ô nhiễm.
Nếu sự bố thí này thuộc về dục giới thiện nghiệp, thì cho quả báu
trong cõi dục giới như giàu sang, phú quý, có nhiều của cải, tiền bạc, có quyền
cao chức trọng... đời sống sung túc, được an lạc, song vẫn còn quanh quẩn trong
cảnh khổ tử sanh luân hồi.
Nếu sự bố thí này trở thành bố thí ba la mật là 1 trong 10 pháp
hạnh ba la mật, thì hỗ trợ cho các ba la mật khác, dẫn đến sự thành tựu siêu tam
giới thiện pháp, đó là sự chứng đắc 4 Thánh Ðạo liền
cho quả là 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Bố thí để trở thành pháp hạnh bố thí ba la mật, khi thí chủ bố thí, với thiện
tâm hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi tà kiến, tham ái, ngã mạn
và hợp với tâm bi, đức tin, trí tuệ phát nguyện chỉ mong chứng
ngộ Niết Bàn, mong trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, hoặc Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc
bậc Thánh Thanh Văn Giác trong hạng nào đó mà thôi. Ngoài ra không cầu mong trở
thành phú hộ, vua chúa, chư thiên, vua trời.... Như vậy, sự bố thí ấy mới trở
thành pháp hạnh bố thí ba la mật.
Nguyên nhân không bố thí
Những hạng phàm nhân sanh ra trong đời này vốn có đầy đủ 12 bất thiện tâm: 8
tham tâm + 2 sân tâm + 2 si tâm; 108 loại tham ái; 1.500 loại phiền não; họ
không có duyên lành gặp được bậc Thiện trí, không được lắng nghe, học hỏi chánh
pháp của bậc Thiện trí, nên không hiểu biết thế nào là thiện pháp, ác pháp,
phước, tội, chánh, tà, v.v... nên không có đức tin nơi nghiệp và quả của
nghiệp.
Những hạng phàm nhân nào vốn có tâm si mê cố hữu, thêm vào tâm keo
kiệt bỏn xẻn trong của cải, trong sự hiểu biết của mình; nên
không muốn đem ban bố cho người khác, chúng sinh khác. Ðó là nguyên nhân không
bố thí được.
Người tham thường nghĩ rằng: "Cho hết, lấy gì để dùng!".
Bậc trí thường dạy rằng: "Dùng hết, lấy gì để bố thí!", mà không
làm phước bố thí, thì do đâu sanh được nhiều của cải. Cũng như, có bao nhiêu
hạt giống ăn hết, thì mong gì sanh được nhiều quả khác!
Suy xét làm phước thiện bố thí
Những tiền kiếp Ðức Bồ Tát đã từng tạo nhiều phước thiện bố thí, do thiện nghiệp
ấy cho quả thường tái sanh trong dòng vua chúa, hoặc gia đình phú hộ có nhiều
của cải. Khi cha mẹ qua đời, Ðức Bồ Tát được thừa hưởng toàn bộ gia tài của cha
mẹ để lại.
Ngài xuy xét rằng: "Toàn bộ của cải này, ông bà cha mẹ để lại, không có một ai
mang theo được một thứ nào cả, đến phiên ta, chắc chắn ta cũng chẳng mang theo
được. Ðiều tốt hơn hết, ta nên sử dụng của cải này đem làm phước bố thí, như
vậy, không những về phần ta có được phước thiện, đem lại sự lợi ích, sự tiến
hóa, sự an lạc ở kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài, mà ta còn có thể
hồi hướng phước thiện ấy đến cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc
của ta nói riêng và tất cả chúng sinh nói chung. Nếu họ hay biết hoan hỉ phần
phước bố thí thanh cao này, chắc chắn họ sẽ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh
cảnh thiện giới (sugati), hưởng được sự an lạc lâu dài; nếu họ đang hưởng an
lạc ở cảnh thiện giới nào rồi, họ hoan hỉ phần phước thiện này, thì sự an lạc
càng thêm tăng trưởng đối với họ.
Suy xét rằng: mọi thứ của cải này liên quan đến 5 tai nạn:
Tai nạn do lửa cháy thiêu hủy.
Tai nạn do nước ngập lụt cuốn trôi.
Tai nạn do trộm cướp chiếm đoạt, sát hại chủ nhân.
Tai nạn do Ðức Vua tịch thu.
Tai nạn do người không ưa thích chiếm đoạt....
Như vậy, mọi thứ của cải trong đời, không chắc chắn thuộc về của riêng ai cả, chỉ
là của chung cho tất cả mọi người; hễ ai có phước thì được hưởng. Nay ta
là người đang thừa hưởng, là chủ nhân của cải này, nếu ta sử dụng của cải này
đem làm phước thiện bố thí, giúp đỡ những người khác, để tạo được phước thiện
thuộc của riêng mình trở thành một thứ của báu được bền vững lâu dài,
chắc chắn không có tai nạn nào làm hư hại, không có một ai chiếm đoạt được.
Suy xét rằng: sự thật, tất cả mọi thứ của cải này, không có tính chất bền vững
lâu dài, cuối cùng chắc chắn phải bị hư hoại, tan nát không còn nữa. Nhưng nếu
ta sử dụng của cải này đem làm phước bố thí, thì sẽ trở thành thiện nghiệp của
riêng ta, có tính chất bền vững lâu dài, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an
laïc trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa. Nếu được làm phước bố thí
đến những bậc có giới đức trong sạch, sẽ cho quả báu vô lượng kiếp, lại còn tạo
duyên lành trên con đường giải thoát khỏi tử sanh luân hồi, trong ba giới bốn
loài nữa".
Ðức Bồ Tát thí dụ rằng:
Ngôi nhà bị cháy, người chủ nhà đem được đồ vật nào ra khỏi nhà, đồ vật ấy có
ích lợi cho họ, những đồ vật còn lại trong nhà bị thiêu hủy hết, chẳng có ích
lợi gì cho chủ nhà cả. Cũng như vậy, sắc thân này ví như ngôi nhà, luôn luôn bị
cháy, bị thiêu hủy bởi 11 thứ lửa: lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, lửa già,
lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống
khổ.... Biết sử dụng của cải đem ra làm phước thiện, thì trở thành
thiện nghiệp là nơi nương nhờ an lành cho chủ nhân trong kiếp hiện tại lẫn
nhiều kiếp vị lai.
Do sự suy xét đúng đắn như vậy, cho nên Ðức Bồ Tát sẵn sàng sử dụng của cải của
mình đem làm phước thiện bố thí một cách dễ dàng, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn
nào có thể ngăn cản việc bố thí.
Dầu Ðức Bồ Tát tái sanh trong gia đình nghèo khổ, thiếu thốn, chịu cảnh đói khổ,
Ngài cũng suy xét rằng: sở dĩ ta sống trong cảnh nghèo khổ, cơm không đủ no, áo
không đủ ấm, chịu cảnh thiếu thốn kiếp hiện tại này, là vì kiếp trước ta ít tạo
phước bố thí. Nay kiếp hiện tại này, nếu ta không hoan hỉ tạo phước bố thí, thì
kiếp sau ắt phải chịu khổ hơn kiếp này nữa.
Do sự suy xét đúng đắn ấy, bậc Thiện trí hoan hỉ làm phước bố thí đến những bậc
có giới đức đáng kính, có ít, thì làm phước bố thí ít, theo khả năng của mình.
Thật ra, phước thiện bố thí được nhiều hay ít hoàn toàn không tùy thuộc vào vật
bố thí, mà tùy thuộc vào tác ý thiện tâm trước khi bố thí, đang khi bố thí và
sau khi đã bố thí xong.
Nếu cả ba thời tác ý thiện tâm trong sạch, hoan hỉ trong việc bố thí, thì chắc
chắn phước thiện bố thí được nhiều vô lượng.
Trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, mỗi chúng sinh chỉ là một
người khách lữ hành tạm trú nơi này, cõi khác một thời gian
ngắn hay dài, tuỳ theo tuổi thọ của mỗi chúng sinh, không có một ai có quyền thường
trú lâu dài theo ý của mình được, dầu phạm thiên ở cõi trời vô
sắc giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên, là cõi trời tột bậc của tam giới có
tuổi thọ dài nhất là 84.000 đại kiếp [đại kiếp là khoảng thời gian trải qua 4 a
tăng kỳ thành-trụ-hoại-không của kiếp trái đất, thời gian lâu dài không thể
tính bằng số lượng được], đến khi hết tuổi thọ ở cõi trời này cũng phải tái
sanh xuống cõi thiện dục giới.
Chúng sinh sống trong tam giới gồm có 31 cõi là:
- Phạm thiên sống trong 4 cõi trời vô sắc giới, đang hưởng quả an lạc trong bậc
thiền sở đắc của mình, nên không có cơ hội nào làm phước thiện bố thí.
- Phạm thiên sống trong 16 cõi trời sắc giới, đang hưởng quả an lạc trong bậc
thiền sở đắc của mình, nên không có cơ hội nào làm phước thiện bố thí.
- Chư thiên sống trong 6 cõi trời dục giới, đang hưởng đầy đủ sự an lạc trong
ngũ trần của mỗi cõi, nên không có cơ hội nào làm phước thiện bố thí. Nếu vị
chư thiên nào muốn làm phước thiện bố thí, vị chư thiên ấy cần phải hiện xuống
cõi người để tìm cơ hội làm phước thiện bố thí.
- Chúng sinh sống trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh đang
chịu quả khổ do ác nghiệp của mình đã tạo, nên không có cơ hội nào làm phước
thiện bố thí.
- Con người trong cõi
Nam
thiện bộ châu, trên địa cầu mà chúng ta đang sống,
có nhiều cơ hội làm phước thiện bố thí; còn con người ở 3 châu khác: Ðông thắng
thần châu, Tây ngưu hoá châu, Bắc câu lưu châu, không có cơ hội, hoặc
ít có cơ hội làm phước thiện bố thí.
Thật vậy, con người chúng ta ở cõi
Nam
thiện bộ châu này có nhiều điểm ưu việt hơn các hàng chúng
sinh ở những cõi khác, đó là:
- Có thể xuất gia hành phạm hạnh cao thượng.
- Có thể tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba la mật, hoặc 20 pháp hạnh ba la mật, hoặc 30
pháp hạnh ba la mật, để trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác, hoặc Ðức Phật Ðộc
Giác, hoặc Ðức Phật Toàn Giác ngay ở cõi người này.
Tuy nhiên, con người chúng ta ở cõi
Nam
thiện bộ châu này cũng có những tính chất đặc biệt nữa là:
- Có thể tạo mọi thiện nghiệp đầy đủ 30 pháp hạnh ba la mật, để trở thành Ðức
Chánh Ðẳng Giác vô thượng trong 10 ngàn thế giới chúng sinh.
- Có thể tạo mọi ác trọng nghiệp gọi là ngũ vô gián nghiệp: giết cha, giết
mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm cho Ðức Phật bầm máu, chia rẽ Tăng; đó
là những ác nghiệp nặng nhất, mà các hàng chúng sinh trong cõi khác không thể
tạo được.
Như vậy,
- Khi con người tạo thiện pháp có khả năng đạt đến mức cực thiện, trở
thành đức Chánh Ðẳng Giác.
- Khi con người tạo ác pháp, có khả năng đạt đến mức cực ác: giết
cha, giết mẹ..., chắc chắn sa vào đại địa ngục Avīci do ác trọng nghiệp của
mình đã tạo.
Mặc dầu vậy, con người vẫn có quyền tối thượng: quyền chọn lựa tạo thiện pháp,
hoặc tạo ác pháp. Cho nên, tái sanh làm người trong cõi
Nam
thiện bộ châu này có nhiều điều thuận lợi để tạo mọi thiện pháp.
Ðức Phật dạy: "Manussattabhāvo dullabho: Ðược tái sanh làm người là điều khó".
Trong kinh sách thường đề cập đến Ðức Bồ Tát tạo mọi thiện nghiệp ở cõi người,
đến khi hết tuổi thọ, sau khi chết, do năng lực cho quả tái sanh là vị thiên
nam trong cõi trời dục giới. Vị thiên nam Bồ Tát này không muốn hưởng sự an lạc
trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà phát nguyện chấm dứt sanh mạng (trước
khi hết tuổi thọ) để được tái sanh làm người cõi Nam thiện bộ châu này,
nơi có nhiều cơ hội thuận lợi tiếp tục công việc bồi bổ pháp hạnh ba la mật cho
sớm được đầy đủ; để trở thành bậc Thánh Thanh Văn, hoặc Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc
Ðức Phật Toàn Giác, rồi đạt đến mục đích cứu cánh cuối cùng là tịch diệt Niết
Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Nay kiếp này, chúng ta có diễm phúc đã được tái sanh làm người rồi, chúng ta nên
cố gắng tạo mọi thiện pháp, để nâng đỡ mình trở nên cao thượng. Thật vậy, con
người được gọi là cao thượng do nhờ thiện pháp, chỉ có thiện pháp mới nâng đỡ
con người trở nên cao thượng như:
Dục giới thiện pháp nâng đỡ tái sanh làm người hoặc chư thiên cõi trời dục giới.
Sắc giới thiện pháp nâng đỡ tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới.
Vô sắc giới thiện pháp nâng đỡ tái sanh làm phạm thiên cõi trời vô sắc giới.
Siêu tam giới thiện pháp nâng đỡ trở thành bậc Thánh nhân trong Phật giáo.
Trong Phật giáo có 4 bậc Thánh nhân:
- Bậc Thánh Nhập Lưu.
- Bậc Thánh Nhất Lai.
- Bậc Thánh Bất Lai.
- Bậc Thánh A-ra-hán.
Trong mọi thiện pháp, phước thiện bố thí là thiện pháp làm nền tảng cho tất caû
mọi thiện pháp, dānaṃ sabbatthasādhakaṃ: phước thiện bố thí có thể hỗ trợ cho sự
thành tựu tất caû mọi thiện pháp, từ tam giới thiện pháp cho đến siêu tam giới
thiện pháp.
Vai trò hạnh bố thí trong các pháp
Bố thí có trong 3 hoặc 10 pháp puññakiriyā-vatthu: pháp tạo nên phước thiện.
Bố thí có trong 4 pháp saṅgaha: pháp tế độ.
Bố thí có trong 4 pháp để trở thành Ðức Vua.
Bố thí có trong 10 pháp hành của Ðức Vua.
Bố thí có trong 10 pháp hạnh ba la mật.
Bố thí có trong 38 pháp maṅgala: pháp an lành.
Bố thí là pháp dễ kết bạn thân thiết với mọi chúng sinh. Trong câu hỏi của
Āḷavakayakkha.... V.v....
Phước Thiện Bố Thí
Phước thiện bố thí được thành tựu do hội đủ nhân duyên kết hợp như:
1- Tác ý thiện tâm bố thí (cetanādāna).
2- Vật bố thí (dānavatthu).
3- Người thọ thí (paṭiggāhaka).
Một khi hội đủ 3 nhân duyên này, mới thành tựu phước thiện bố thí.
1- Tác Ý Thiện Tâm Bố Thí
Thí chủ có tác ý thiện tâm (kusalacetanā) sử dụng những vaät bố thí ấy
đem ban bố, phân phát đến cho những người khác, chúng sinh khác.
Thông thường tác ý thiện tâm bố thí diễn tiến, trải qua 3 thời kỳ:
1- Tác ý thiện tâm trước khi bố thí (pubbacetanā).
2- Tác ý thiện tâm đang khi bố thí (muñcacetanā).
3- Tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí (aparacetanā).
1- Tác ý thiện tâm trước khi bố thí như thế nào?
Thí chủ nhìn thấy, hoặc nghe thấy, hoặc suy tư về một phước thiện nào đó, phát
sanh đức tin trong sạch, có tâm từ bi muốn làm phước bố thí để tế độ, giúp đỡ
mọi người, mọi chúng sinh, nên tìm cơ hội tốt để tạo nên phước thiện ấy. Thời
kỳ tác ý thiện tâm muốn làm phước bố thí này có thể phaùt sanh trước nhiều năm,
nhiều tháng, nhiều ngày hoặc ngay trước khi bố thí không lâu, đó là thời gian
chuẩn bị để làm phước thiện bố thí. Suốt thời gian này, gọi là tác ý thiện tâm
trước khi bố thí, dù chưa thành tựu phước thiện bố thí, song
tác ý thiện tâm này cũng gọi là thiện nghiệp.
2- Tác ý thiện tâm đang khi bố thí như thế nào?
Thí chủ có tác ý thiện tâm trước khi bố thí từ trước, nay đến lúc, đến thời thí
chủ sử dụng vật bố thí, đó là của cải, tiền bạc, đồ đạc, vật thực... hoặc sự
hiểu biết của mình đem ban bố, phân phát đến người khác, với tâm từ bi tế độ và
được người khác đang thọ nhận những vật bố thí hoặc sự hiểu biết của mình ban
cho.
Thời gian ngắn ngủi diễn ra giữa người thí chủ trao vật thí và người thọ thí
tiếp nhận vật thí ấy, gọi là thời kỳ tác ý thiện tâm đang khi bố thí,
đồng thời phước thiện bố thí được thành tựu ngay khi ấy.
3- Tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí như thế nào?
Sau khi thí chủ đã có tác ý thiện tâm bố thí xong, phước thiện bố thí đã thành
tựu rồi, kể từ thời gian đó về sau, mỗi khi thí chủ nhớ tưởng, niệm tưởng đến
phước thiện bố thí ấy, đồng thời tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí
phát sanh, thì thiện nghiệp bố thí tăng trưởng. Ở thời kỳ này, thời gian không
hạn định, có thể nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, nhiều kiếp sau... mỗi khi
nhớ tưởng, niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy, đồng thời tác ý thiện tâm
phát sanh, có sự bố thí làm đối tượng, nên thiện nghiệp bố thí lại tăng
trưởng.
Cho nên, trong 40 đề mục thiền định, có đề mục gọi là "cāgānussati: đề mục niệm
tưởng đến phước thiện bố thí của mình đã tạo trước đây". Hành giả tiến
hành đề mục thiền định này có thể đạt đến cận định mà thôi, hỉ
lạc phát sanh đến hành giả; đề mục thiền định này không thể đạt đến an định,
bởi vì, đề mục thiền định này quá rộng lớn bao la, không rõ ràng, không thể làm
cho ấn chứng thô ảnh tương tự và ấn chứng quang ảnh trong sáng phát
sanh, nên không chứng đắc bậc thiền nào.
2- Vật Bố Thí
Vật bố thí để tạo nên phước thiện, Ðức Phật dạy có nhiều loại:
Trong Luật tạng, Ðức Phật dạy có 4 loại vật bố thí để tạo nên
phước thiện, gọi là tứ vật dụng (catupaccaya) cần thiết cho cuộc sống
hằng ngày của tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng; nhất là đối với
bậc xuất gia, Sa di, Tỳ khưu trong Phật giáo.
Ðức Phật cho phép Tỳ khưu, Sa di thọ nhận tứ vật dụng của thí chủ dâng cúng là:
1- Y phục (cīvara): y phục của Tỳ khưu, Sa di mặc che kín
sắc thân đáng hổ thẹn, ngăn ngừa nóng lạnh, muỗi mòng, rắn rít..., gồm có 3 tấm
y:
- Y 2 lớp đắp khi trời lạnh.
- Y nội mặc che kín từ lỗ rún xuống quá đầu gối 8 ngón tay, vòng quanh trước
sau đều đặn.
- Y vai trái mặc choàng kín quanh toàn thân mình, từ cổ xuống quá đầu gối 4
ngón tay, vòng quanh trước sau đều đặn.
2- Vật thực (piṇṇapāta): vật thực của Tỳ khưu, Sa di kiếm
được bằng cách đi khất thực (xin ăn) từ nhà này sang nhà khác, dầu ít
hay nhiều để vào bát vừa đủ ăn một bữa, thọ thực không được quá ngọ (12 giờ
trưa).
3- Chỗ ở (senāsana): chỗ ở của Tỳ khưu, Sa di thường ở dưới
gốc cây, hang động.... Nếu có phước đặc biệt, Tỳ khưu, Sa di có thể thọ lãnh
chỗ ở do thí chủ xây cất như cốc, chùa.......
4- Thuốc trị bệnh (gilānabhesajja): thuốc trị bệnh của Tỳ
khưu, Sa di thường là nước tiểu bò, hoặc nước tiểu ngâm loại trái cây làm thuốc
[Ðức Phật cho phép dùng 2 loại trái cây làm thuốc: agadāmalaka và
agadaharītaka] .... Nếu có phước đặc biệt Tỳ khưu, Sa di có thể thọ nhận
các loại thuốc do thí chủ dâng cúng để trị bệnh, ngừa bệnh....
Trong Vi diệu pháp tạng, Ðức Phật thuyết về chân nghĩa pháp (paramatthadhamma),
dạy vật thí có 6 loại:
1- Sắc thí (rūpadāna): bố thí các hình dạng, màu
sắc, nhìn thấy bằng nhãn thức tâm.
2- Thanh thí (saddadāna): bố thí các âm thanh, nghe được bằng nhĩ thức
tâm.
3- Hương thí (gandhadāna): bố thí các mùi, ngửi được bằng tỷ thức tâm.
4- Vị thí (rasadāna): bố thí các vị, nếm được bằng thiệt thức tâm.
5- Xúc thí (phoṭṭhabbadāna): bố thí các loại xúc, tiếp xúc được bằng
thân thức tâm.
6- Pháp thí (dhammadāna): bố thí các pháp, biết được bằng ý thức tâm.
Trong Kinh tạng Ðức Phật thuyết dạy vật bố thí có 10 loại:
1- Bố thí vật thực (annadāna): bố thí các loại
thức ăn.
2- Bố thí nước uống (pānadāna): bố thí các loại nước uống.
3- Bố thí vải (vatthadāna): bố thí các loại vải.
4- Bố thí xe cộ (yānadāna): bố thí các loại xe cộ phương tiện đi lại.
5- Bố thí bông hoa (mālādāna): bố thí các loại bông hoa.
6- Bố thí vật thơm (gandhadāna): bố thí các loại mùi thơm.
7- Bố thí vật thoa (vilepanadāna): bố thí các loại vật thoa.
8- Bố thí chỗ nằm (seyyādāna): bố thí các chỗ nằm như: giường, ghế, đồ
trải nằm.
9- Bố thí chỗ ở (āvasathagharadāna): bố thí chỗ ở như: chùa, nhà,
cốc....
10- Bố thí đèn (padīpeyyadāna): bố thí đèn phát sanh ánh sáng.
Mười loại vật thí này là những vật thường dùng trong đời sống. Ngoài ra, trong
đời còn có nhiều vật thí khác đem lại sự lợi ích, thuận lợi trong cuộc sống,
không đem lại sự tai hại cho kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai, có thể dùng làm vật
bố thí để tạo phước thiện.
3- Người Thọ Thí
Người thọ thí đóng vai trò quan trọng để thành tựu phước thiện bố thí. Trường
hợp thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí, có vật bố thí, mà không có người thọ thí
thì không thành tựu phước thiện bố thí của thí chủ.
Người thọ thí còn quan trọng là thành tựu được quả báu của phước thiện bố thí
nhiều hoặc ít.
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta [Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa,
Dakkhiṇavibhaṅgasutta], Ðức Phật có dạy hai hạng thọ thí:
1- Cá nhân thọ thí (paṭipuggalikadāna).
2- Chư Tỳ khưu Tăng thí (Saṃghadāna).
- Cá nhân thọ thí như thế nào?
Cá nhân thọ thí là thí chủ làm phước thiện bố thí đến mỗi cá nhân, có tính cách
riêng biệt dầu một vị hay nhiều vị.
Cá nhân thọ thí được phân chia có 14 hạng, từ bậc cao nhất đến hạng thấp nhất:
1- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ðức Chánh Ðẳng
Giác.
2- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ðức Phật Ðộc Giác.
3- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh A-ra-hán.
4- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai hành giả đang tiến
hành thiền tuệ, để chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
5- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai.
6- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai hành giả đang tiến
hành thiền tuệ, để chứng đắc bậc Thánh Bất Lai.
7- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai.
8- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu hành giả đang tiến
hành thiền tuệ, để chứng đắc bậc Thánh Nhất Lai.
9- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu.
10- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hành giả đang tiến hành thiền tuệ, để
chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
11- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hành giả ngoài Phật giáo chứng đắc
thiền, có thần thông.
12- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hạng phàm nhân (Tỳ khưu, Sa di, cận
sự nam, cận sự nữ) có giới đức trong sạch.
13- Làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân phạm giới, không có giới.
14- Làm phước thiện bố thí đến loài súc sanh.
Ðó là 14 hạng cá nhân thọ thí.
Quả báu cá nhân thọ thí
Trong 14 hạng cá nhân thọ thí này, thí chủ làm phước thiện bố thí đến hạng nào
cũng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh và trí tuệ.
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến loài súc sanh như chim, cá,... sẽ
hưởng được 5 quả báu suốt 100 kiếp.
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân phạm giới, không có
giới, sẽ được hưởng 5 quả báu suốt 1.000 kiếp.
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân có giới đức trong sạch,
sẽ được hưởng 5 quả báu suốt 100.000 kiếp.
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân ngoài Phật giáo chứng
đắc thiền và thần thông, sẽ hưởng được 5 quả báu suốt triệu triệu kiếp hoặc một
ngàn tỷ kiếp (1012).
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến hành giả đang tiến hành thiền tuệ để chứng
đắc bậc Thánh Nhập Lưu, sẽ hưởng được 5 quả báu vô lượng kiếp.
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến bậc Thánh Nhập Lưu, sẽ hưởng được 5 quả báu
vô lượng kiếp nhiều hơn nữa.
Thí chủ làm phước thiện bố thí đến bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc
Thánh A-ra-hán, Ðức Phật Ðộc Giác, Ðức Chánh Ðẳng Giác sẽ được hưởng quả báu vô
lượng, vô lượng kiếp không sao kể xiết được.
Về cá nhân thọ thí, bậc thọ thí có đầy đủ 5 đức: giới – định – tuệ – giải thoát
– giải thoát tri kiến hoàn toàn chừng nào thì quả báu vô lượng, vô lượng chừng
ấy.
Ví như người nông dân tài giỏi, có hạt giống tốt, gieo trên thửa ruộng tốt mầu
mỡ, thì chắc chắn sẽ thu hoạch được bội phần. Cũng như vậy, thí chủ có đức tin
trong sạch nơi Tam bảo, có tác ý thiện tâm trong sạch đầy đủ 3 thời kỳ, hoan hỉ
làm phước bố thí những vật bố thí hợp pháp, đến bậc thọ thí có đầy đủ 5 đức:
giới – định – tuệ – giải thoát – giải thoát tri kiến hoàn toàn chừng nào, chắc
chắn quả báu vô lượng, vô lượng kiếp kể từ thuở ấu niên, trung niên cho đến lão
niên đầy đủ chứng ấy.
-
Chư Tỳ khưu Tăng thọ thí như thế nào?
Chư Tỳ khưu Tăng thí là làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng
có tính cách chung, là một vị Tăng hoặc nhiều vị Tăng. Ðiều quan trọng, tâm của
thí chủ hướng đến cúng dường chư Tăng, không phải hướng đến một cá nhân thọ thí
nào. Thí chủ bạch với vị Ðại Ðức quản Tăng rằng: "Kính bạch Ðại Ðức, con xin
kính thỉnh 1 vị Tỳ khưu Tăng". Vị Ðại Ðức quản Tăng chỉ định vị Tỳ khưu
nào, vị Tỳ khưu ấy đại diện chư Tăng thọ thí, như vậy gọi là Tỳ khưu
Tăng thọ thí, không phải cá nhân thí.
Tỳ khưu Tăng thọ thí phân chia có 7 nhóm:
1- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ
khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng, có Ðức Phật chủ trì.
2- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ
khưu ni Tăng, sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn.
3- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng.
4- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu ni Tăng.
5- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng và một số
Tỳ khưu ni Tăng, (mỗi bên có một số vị đại diện, bất luận ít hay nhiều).
6- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng (có một vị
hoặc một số Tỳ khưu đại diện Tăng).
7- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu ni Tăng (có một
vị hoặc một số Tỳ khưu ni đại diện Tăng).
Ðó là 7 nhóm chư Tỳ khưu Tăng thọ thí, trong thời hiện tại này chỉ còn hai hạng
chư Tăng thọ thí là:
Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng.
Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng (có một vị hoặc
một số Tỳ khưu đại diện Tăng).
Ðức Phật dạy Ðại Ðức Ānanda rằng:
"Này Ānanda, trong thời vị lai sẽ có hạng người gọi tên Tỳ khưu "Bhikkhu" còn
mảnh y quấn cổ, là người phạm giới, hành ác pháp. Những người thí chủ có đức
tin trong sạch nơi Tam bảo, có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng
dường đến chư Tỳ khưu Tăng dầu trong số Tỳ khưu phạm giới ấy.
Này Ānanda, sự làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng trong thời
vị lai ấy, Như Lai dạy rằng: vẫn có quả báu vô lượng không sao kể xiết được.
Như Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng: làm phước thiện bố thí đến
cá nhân thọ thí hưởng quả báu nhiều hơn làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu
Tăng thọ thí" [Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa, Dakkhiṇavibhaṅgasutta.]
Qua đoạn kinh trên, Ðức Phật dạy cho người Phật tử nên biết rõ khi tác ý thiện
tâm nghĩ đến chư Tỳ khưu Tăng là nghĩ đến ngôi Tăng bảo, là phước điền
cao thượng của tất cả chúng sinh. Bởi vì chỉ có cá nhân Tỳ khưu phạm giới (bhikkhu
dussīla), còn ngôi Tăng bảo là những bậc Thánh Tăng hoàn toàn
trong sạch, thanh tịnh, cao thượng; cho nên làm phước thiện bố thí cúng dường
đến chư Tỳ khưu Tăng, phải nên liên tưởng đến chư bậc Thánh Tăng chắc chắn
phước thiện bố thí vô lượng, không sao kể xiết.
Do đó, thí chủ nên có "tác ý thiện tâm trong sạch nơi Ðức Tăng, tâm không nên
nghĩ đến cá nhân vị Sa di, Tỳ khưu, vị Ðại Ðức nào".
Ví dụ: Người thí chủ muốn làm phước thiện bố thí cúng dường đến "Tỳ khưu Tăng" 1
vị, 2 vị,... người ấy đến bạch với vị Tỳ khưu quản Tăng rằng:
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con xin thỉnh Tăng 1 vị (hoặc 2 – 3... vị), xin Ngài
chỉ định cho con 1 vị Tăng (hoặc 2-3.... vị).
Khi Ngài Ðại Ðức quản Tăng chỉ định vị nào, thí chủ hoan hỉ đón rước vị ấy, một
cách cung kính như cung kính với chư bậc Thánh Tăng. Như vậy, gọi là làm phước
thiện bố thí cúng dường đến "Tỳ khưu Tăng thọ thí".
Nhưng nếu Ngài Ðại Ðức quản Tăng chỉ định một vị Sa di hoặc một vị Tỳ khưu phạm
giới, hoặc một vị Ðại Ðức có giới hạnh trang nghiêm.... Nếu người thí chủ nghĩ
rằng "ta thỉnh được một vị Sa di, hoặc vị Tỳ khưu phạm giới, hoặc vị Ðại Ðức có
giới hạnh trang nghiêm". Như vậy, không gọi là làm phước thiện bố thí
đến Tỳ khưu Tăng thọ thí, mà trở thành cá nhân thọ thí.
Trong Chú giải bài kinh trên, có tích nói về phước thiện bố thí cúng dường đến
Tỳ khưu Tăng, được tóm tắt như sau:
Người cận sự nam thiện trí là thí chủ xây cất một ngôi chùa dâng cúng đến chư
Tăng. Một hôm, ông đến chùa thỉnh "Tỳ khưu Tăng" 1 vị về nhà làm phước thiện bố
thí cúng dường vật thực, Ngài Ðại Ðức quản Tăng kiểm Tỳ khưu, lần này đến phiên
một vị Tỳ khưu có giới hạnh không trong sạch, không trang nghiêm, được chỉ định
đại diện "Tỳ khưu Tăng" đến nhà người cận sự nam này.
Buổi sáng vị Tỳ khưu mặc y mang bát đến nhà, người cận sự nam đón rước cung kính
như một vị Ðại Ðức cao Tăng, như là rữa chân, lau hai bàn chân, thỉnh mời ngồi
chỗ cao quý, tự tay mình dâng cúng những món vật thực ngon lành với tâm hoan hỉ
và kính trọng "Tỳ khưu Tăng". Vị Tỳ khưu ấy sau khi độ vật thực xong trở về
chùa, người cận sự nam tiễn đưa về đến chùa cũng với tâm hoan hỉ và kính trọng
"Tỳ khưu Tăng".
Buổi chiều vị Tỳ khưu ấy đến nhà người cận sự nam này mượn đồ dùng để làm việc
riêng, người cận sự nam này dùng chân đẩy món đồ dùng ra cho mượn không một
chút kính trọng, rồi bảo rằng: "Hãy đem đi!".
Một người bên cạnh theo dõi hành vi cử chỉ người cận sự nam này từ sáng đến
chiều hoàn toàn trái ngược nhau, không hiểu tại sao? Muốn tìm hiểu, nên hỏi
người cận sự nam này rằng:
- Thưa anh, tôi nhìn thấy sáng nay anh tỏ ra kính trọng với vị Tỳ khưu giới hạnh
không trong sạch ấy, như một vị Ðại Ðức cao Tăng, mà chiều nay anh lại đối xứ
với vị Tỳ khưu ấy không có chút nào kính trọng cả. Tại sao như vậy? Thưa anh.
Người cận sự nam thí chủ thưa rằng:
- Sáng nay, tôi hết lòng cung kính, vì thiện tâm của tôi hươùng đến "Tỳ khưu
Tăng", hoàn toàn không phải hướng đến cá nhân vị Tỳ khưu ấy.
Chiều nay, tôi tỏ ra không kính trọng đến cá nhân vị Tỳ khưu ấy, bởi vì tôi thấy
rõ vị Tỳ khưu ấy có giới hạnh không trong sạch, thân và khẩu không trang
nghiêm, không thu thúc lục căn thanh tịnh, cho nên, tôi không cung kính đến cá
nhân vị Tỳ khưu ấy, hoàn toàn không liên quan đến Tỳ khưu Tăng.
Qua tích trên, người cận sự nam thí chủ có trí tuệ, hiểu biết cách làm phước bố
thí cúng dường một cách cung kính đến Tỳ khưu Tăng (dầu gặp vị Tỳ khưu có giới
không trong sạch). Việc làm phước bố thí cúng dường đến Tỳ khưu Tăng
này có được phước thiện vô lượng, có quả báu vô lượng, suốt vô lượng kiếp.
Người Bố Thí – Người Thọ Thí (Dāyaka – Paṭiggāhaka)
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta [Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa,
Dakkhiṇavibhaṅgasutta], Ðức Phật dạy Ðại Ðức Ānanda rằng:
"Này Ānanda, sự trong sạch đối với người bố thí và người thọ thí có 4 trường hợp:
1- Người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ
thí không có tâm trong sạch.
2- Người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong
sạch.
3- Người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
4- Người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.
- Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch; còn người thọ
thí không có tâm trong sạch?
Trường hợp này, người bố thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp,
còn người thọ thí là người phạm giới, hành ác pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch; còn người thọ thí không có
tâm trong sạch.
- Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí không có tâm trong sạch; còn người thọ
thí có thiện tâm trong sạch?
Trường hợp này, người bố thí là người phạm giới, hành ác pháp, còn người thọ thí
là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí không có tâm trong sạch; còn người thọ thí có thiện
tâm trong sạch
- Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm không
trong sạch?
Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người phạm giới,
hành ác pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
- Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm trong
sạch?
Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người có giới đức
trong sạch, hành thiện pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm trong sạch".
Giải thích 4 trường hợp:
1- Trường hợp thí chủ là người có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp; còn người
thọ thí là người có giới không trong sạch, có ác pháp, phước thiện bố thí này
cho quả báu không được hoàn toàn một trăm phần trăm. Ví dụ:
Như trường hợp Ðức Bồ Tát Vessantara làm phước thiện bố thí con cho Bà la môn ăn
xin Jūjaka có giới không trong sạch, thế mà do năng lực phước thiện của Ðức Bồ
Tát cũng có thể làm cho mặt đất rung chuyển.
2- Trường hợp thí chủ là người có giới không trong sạch, có ác pháp; còn người
thọ thí có giới trong sạch, có thiện pháp, phước thiện bố thí này cho quả báu
kém hơn trường hợp trên. Ví dụ:
Như trường hợp người dân chài làm phước thiện bố thí để bát 3 lần đến Ngài Ðại
Ðức Dīghasoma. Khi gần chết, phước thiện bố thí để bát hiện lên cho quả tái
sanh làm chư thiên ở cõi trời dục giới.
3- Trường hợp thí chủ là người có giới không trong sạch, có ác pháp; người thọ
thí cũng có giới không trong sạch, có ác pháp, phước thiện bố thí này cho quả
không đáng kể. Ví dụ:
Như trường hợp người thợ săn thú rừng làm phước thiện bố thí 3 lần đến vị Tỳ
khưu có giới không trong sạch, có ác pháp; rồi hồi hướng đến thân quyến loài
ngạ quỷ; loài ngạ quỷ ấy hoan hỷ phước thiện ấy không đáng kể, không thể thoát
khỏi cảnh khổ của ngạ quỷ, nên than rằng: Tỳ khưu không có giới kia phá hoại
phước thiện của ta rồi!
Về sau, loài ngạ quỷ hiện ra báo cho người thợ săn ấy biết rõ như vậy, lần này
người thọ săn làm phước thiện bố thí cúng dường để bát chỉ 1 lần đến vị Tỳ khưu
có giới, có thiện pháp, rồi hồi hướng đến thân quyến loài ngạ quỷ. Lần này,
ngaï quỷ hoan hỉ thọ nhận được phước thiện bố thí ấy, nên thoát khỏi cảnh khổ
loài ngạ quỷ, được tái sanh nơi thiện giới.
4- Trường hợp thí chủ là người có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp; còn người
thọ thí cũng có giới trong sạch, có thiện pháp, phước thiện bố thí này cho quả
báu hoàn toàn một trăm phần trăm, quả báu vô lượng không sao kể xiết.
Trong 4 trường hợp này, trường hợp thứ tư cả người bố thí lẫn người thọ thí đều
có thiện tâm trong sạch, dĩ nhiên sẽ có phước thiện bố thí vô lượng, sẽ hưởng
quả báu suốt vô lượng kiếp.
Nếu không được như vậy, người bố thí là bậc Thiện trí, có giới hạnh trong sạch,
có thiện pháp phát triển, tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ việc làm phước
thiện bố thí, thì phước thiện cũng được phát triển, sẽ hưởng được quả báu
nhiều.
Ví dụ: Một nông dân tài giỏi, có được hạt giống tốt dầu gieo ở đất hoặc
thửa ruộng không tốt, nhưng nhờ người nông dân ấy biết săn sóc tưới nước khi
cần nước, biết phân bón khi cần phân bón, biết làm cỏ lúa,... chắc chắn người
nông dân ấy sẽ thu hoạch không ít.
Quả Báu Riêng Biệt Của Mỗi Vật Thí
Quả báu chung của bố thí có 5:
1- Tuổi thọ sống lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân, tâm an lạc.
4- Thân tâm có sức mạnh.
5- Có trí tuệ nhanh nhẹn, hoặc có quyền cao chức trọng.
Mỗi vật thí có quả báu riêng biệt của nó, được sưu tập từ các bộ trong Tam tạng
như sau:
- Bố thí cơm nước được 10 quả báu:
1- Sống lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân và tâm an lạc.
4- Thân tâm có sức mạnh.
5- Có định tâm mau lẹ.
6- Có trí tuệ sáng suốt.
7- Có nhiều bạn bè (tùy tùng).
8- Có tâm dũng cảm.
9- Có cơm đầy đủ (không thiếu ăn).
10- Có nước uống đầy đủ.
- Bố thí cháo được 10 quả báu: [Vinayapiṭaka, Mahāvagga, phần
Bhesajjakkhandhaka]
1- Sự sống lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân tâm an lạc.
4- Thân tâm có sức mạnh.
5- Trí tuệ nhanh nhẹn.
6- Giảm sự đói.
7- Giảm sự khát.
8- Làm cho chất gió lưu thông.
9- Rửa đường ruột.
10- Tiêu hoá vật thực.
Hoặc bố thí cháo được 10 quả báu:
1- Ðược tái sanh cõi Tam thập tam thiên.
2- Có lâu đài bằng ngọc, có nhiều thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc cõi trời.
3- Ðược 33 lần làm vua cõi Tam thập tam thiên.
4- Ðược 30 lần làm đức Chuyển luân thánh vương.
5- Làm vua nước lớn không kể xiết.
6- Kiếp chót xuất gia, khi cạo tóc đồng thời chứng đắc Thánh Ðạo – Thánh Quả.
7- Kiếp chót ấy, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, trước khi thọ Tam quy và thọ giới.
8- Không buồn rầu, khóc than.
9- Ít bệnh hoạn ốm đau.
10- Chứng ngộ Niết Bàn.
- Bố thí nước được 10 quả báu:
1- Sắc thân sạch sẽ, sáng sủa.
2- Thân tâm nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.
3- Có nhiều bạn bè, tùy tùng.
4- Có tiếng tốt lan rộng khắp mọi nơi.
5- Không bị khát nước.
6- Tuổi thọ sống lâu.
7- Sắc thân xinh đẹp.
8- Thân, tâm an lạc.
9- Thân, tâm có sức mạnh.
10- Có trí tuệ sáng suốt.
- Bố thí thuốc trị bệnh được 10 quả báu:
1- Tuổi thọ sống lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân, tâm có sức mạnh.
4- Có nhiều trí tuệ.
5- Có nhiều bạn bè, có tiếng tốt lan rộng.
6- Ít khổ, được nhiều an lạc.
7- Ít bệnh hoạn ốm đau.
8- Tránh khỏi mọi tai họa.
9- Ðược chư thiên nhân loại kính mến.
10- Thường được gần gũi với người thân yêu.
- Bố thí hộp nhỏ được 10 quả báu:
1- Tránh khỏi mọi tai họa.
2- Thân tâm an lạc.
3- Có nhiều bạn bè.
4- Không tái sanh cảnh ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).
5- Cử chỉ nói năng nhã nhặn, vi tế.
6- Không nghèo khổ.
7- Có tiếng tốt lan rộng khắp mọi nơi.
8- Có hai bàn tay bằng phẳng.
9- Không kinh sợ.
10- Có những hộp bằng vàng, bạc, ngọc, thủy tinh và có ngựa quý, voi quý; những
vật quý không bị mất.
- Bố thí cầu bắc qua sông, rạch được 10 quả báu:
1- Nếu bị rơi từ trên cây cao, núi cao, xuống hố sâu,
vực thẳm... sẽ có một vật cản trở không nguy hiểm, nếu bị chết sẽ tái sanh cõi
thiện giới.
2- Những kẻ thù không làm hại được.
3- Kẻ trộm cướp không chiếm đoạt được của cải của mình.
4- Ðức Vua không coi thường.
5- Thoát khỏi mọi tai họa.
6- Ở ngoài trời nắng không cảm thấy khó chịu.
7- Ở cõi người hoặc cõi trời, khi cần xe, voi sẽ hiện ra.
8- Ðược xe ngựa quý Sindho chạy nhanh như gió.
9- Có voi quý bay trên hư không.
10- Chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạt tuyệt phiền
naõo trầm luân, tịch diệt Niết Bàn.
- Bố thí dù che được 8 quả báu:
1- Thân không bị lạnh hoặc nóng.
2- Thân không bị dính bụi dơ.
3- Tránh khỏi mọi tai họa.
4- Ít bệnh hoạn, không bị hành phạt.
5- Sắc thân có da thịt mềm mại.
6- Ðược chư thiên, nhân loại kính trọng.
7- Tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não.
8- Nếu cần, có cả trăm ngàn cây dù.
- Bố thí bát được 8 quả báu:
1- Dùng chén bát bằng vàng, bạc, ngọc....
2- Tránh khỏi mọi tai họa.
3- Ít bệnh hoạn ốm đau.
4- Có nhiều của cải tài sản.
5- Của cải được bền vững lâu dài.
6- Ðược chư thiên, nhân loại kính trọng.
7- Tâm dễ an định.
8- Phiền não ít phát sanh, tâm mong muốn pháp cao thượng.
- Bố thí thuốc nhỏ mắt được 8 quả báu:
1- Có đôi mắt tròn đẹp.
2- Con mắt chỗ trắng thì trắng.
3- Con mắt chỗ vàng thì vàng.
4- Con mắt chỗ đen thì đen.
5- Con mắt trong sáng xinh đẹp.
6- Tránh khỏi bệnh đau mắt.
7- Con mắt như mắt của chư thiên.
8- Có thể chứng đắc pháp nhãn.
- Bố thí vải, y phục được 6 quả báu:
1- Kiếp nào, sắc thân cũng có da màu vàng, đẹp đẽ.
2- Sạch sẽ, không dơ bẩn.
3- Sắc thân phát ra ánh sáng.
4- Sắc thân có da thịt mềm mại.
5- Nếu cần, y phục có cả ngàn.
6- Vải lụa, vải nhung, gấm,...... muốn bao nhiêu cũng được.
- Bố thí khăn lau được 6 quả báu:
1- Sắc thân phát ra ánh sáng.
2- Không dơ dáy bẩn thỉu.
3- Nước da màu vàng óng ánh.
4- Sắc thân có da thịt mềm mại.
5- Bụi dơ không dính vào thân.
6- Có nhiều oai lực.
- Bố thí gối nằm được 6 quả báu:
1- Có được những gối trầm thơm, gối ướp hương sen, gối
lông cừu....
2- Thu thúc thân khẩu, thu thúc lục căn thanh tịnh. Có thể chứng đắc các bậc
thiền hữu sắc với đề mục tứ vô lượng tâm.
3- Hiểu biết pháp hành giới, định, tuệ.
4- Tinh tấn tiến hành thiền tuệ dẫn đến hoàn thành 37 pháp Chứng đắc Thánh Ðạo.
5- Chứng đắc Thánh Ðạo – Thánh Quả.
6- Hưởng sự an lạc trong Thánh Quả A-ra-hán.
- Bố thí giày dép được 4 quả báu:
1- Có xe, ngựa, kiệu, phương tiện đi lại đầy đủ.
2- Mỗi bước đi như đạp trên tấm thảm nhung.
3- Có chánh niệm tiến hành theo con đường giải thoát khổ.
4- Có chánh niệm, có lục căn thanh tịnh.
Trên đây trích quả báu của một số vật thí làm tiêu biểu, để hiểu rõ moãi vật thí
có quả báu riêng biệt của nó, cũng như mỗi loại giống có mỗi loại quả của chính
nó. Tất cả mọi quả báu này nhiều hay ít, hoàn toàn tùy thuộc vào đức tin trong
sạch và tác ý thiện tâm (cetanā) cả 3 giai đoạn:
Giai đoạn trước khi bố thí.
Giai đoạn đang khi bố thí.
Giai đoạn sau khi đã bố thí.
Cả 3 giai đoạn đều có đại thiện tâm trong sạch hoan hỉ đến sự bố thí ấy (vật thí
dầu ít hay nhiều), chắc chắn phước thiện bố thí vô lượng; thì quả báu của phước
thiện bố thí ấy cũng vô lượng.
Phân Loại Bố Thí
Do những nhân duyên: tác ý thiện tâm bố thí, người thọ thí và vật bố thí khác
nhau, nên phân loại ra thành nhiều nhóm, mỗi nhóm có 2 – 3 ... loại phước thiện
bố thí.
Nhóm bố thí có hai loại
Ví dụ: Āmisadāna – Dhammadāna.
- Āmisapūjā: cúng dường bằng những vật
như: hoa, quả, vật thơm....
- Dhammapūjā: cúng dường bằng cách thực hành theo chánh pháp.
Trong hai cách cúng dường này, cúng dường bằng cách hành theo chánh pháp là cao
thượng hơn cả.
Vaṭṭanissitadāna – Vivaṭṭanissitādāna.
- Vaṭṭanissitadāna: bố thí cầu mong hưởng sự an
lạc đời đời, kiếp kiếp trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.
- Vivaṭṭanissitadāna: bố thí chỉ cầu mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát
khổ trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.
Thật ra, sự bố thí cầu mong hưởng sự an lạc trong kiếp tử sinh luân hồi trong
tam giới, thí chủ được thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti),
như giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, được hưởng sự an lạc cõi người;
và được thành tựu quả báu trong cõi trời (devasampatti), được hưởng sự
an lạc cõi trời. Dầu ở cõi nào thí chủ cũng hài lòng, say đắm trong cõi ấy,
không muốn từ bỏ. Nhưng đến khi hết tuổi thọ, phải từ bỏ cõi ấy, tâm thường bị
ô nhiễm, luyến tiếc của cải và những người thân yêu.
Còn bố thí cầu mong chứng ngộ Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam
giới, khi thí chủ chưa chứng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, vẫn còn trong
vòng tử sanh luân hồi, thì vẫn được giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng; và
vẫn hưởng được sự an lạc cõi người, cõi trời. Song tâm không dính mắc nơi của
cải, tài sản, sự nghiệp ấy; sẵn sàng sử dụng của cải, tài sản bố thí đến người
khác một cách dễ dàng; thậm chí dễ dàng từ bỏ nhà, đi xuất gia hành phạm hạnh,
để mong chứng ngộ Niết Bàn, theo năng lực lời phát nguyện trong kiếp quá khứ.
Như vậy, đối với hạng người bố thí cầu mong chứng ngộ Niết Bàn họ sẽ được thành
tựu: quả báu cõi người (manussasampatti), quả báu cõi trời (devasampatti),
và còn kết quả chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti) nữa.
Thí chủ cầu mong chứng ngộ Niết Bàn, cần phải phát nguyện rằng:
"Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu".
"Cầu mong phước thiện bố thí của con, làm duyên lành dẫn dắt con đến sự chứng ngộ
Niết Bàn, chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðaïo, A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt
tất cả mọi phiền não trầm luân".
Sāhatthikadāna – āṇattikadāna.
- Sāhatthikadāna: tự thí: tự tay mình đem
những vật thí dâng cúng, ban bố, phân phát đến người khác.
- Aṇattikadāna: sai khiến người thí: không tự tay mình bố thí, mà
sai khiến người đem những vật thí của mình ban bố, phân phát đến người khác.
Tự thí có quả báu giàu sang phú quý, có nhiều người thân yêu quý mến, giúp đỡ,
hầu hạ.
Sai khiến người thí có quả báu giàu có, song sống cô đơn, ít người thân yêu, hầu
hạ.
Như trường hợp cậu Uttara là nô bộc của ông Tỉnh trưởng Pāyāsi, được ông sai bảo
hằng ngày phân phát bố thí của cải của ông đến người khác. Cậu Uttara sau khi
chết, do phước thiện bố thí cho quả tái sanh làm chư thiên cõi Tam thập tam
thiên, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nam, thiên nữ, bạn thân,
hầu hạ...; còn ông Tỉnh trưởng Pāyāsi sau khi chết, được tái sanh làm chư thiên
cô đơn nơi cõi trời Tứ đại thiên vương, trong một lâu đài hoang vắng, không có
thiên nam, thiên nữ hầu hạ.
Sakkaccadāna – Asakkaccadāna.
- Sakkaccadāna: cung kính thí: tự mình đem
những đồ vật bố thí, cúng dường đến Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam bảo, hoặc
đến người khác một cách cung kính.
- Asakkaccadāna: bất kính thí: tự mình đem những đồ vật bố thí,
cúng dường đến Tam bảo, hoặc đến người khác một cách không cung kính, xem
thường.
Ñāṇasampāyuttadāna – Ñāṇavippāyuttadāna.
- Ñāṇasampāyuttadāna: bố thí hợp với trí: thí chủ có trí tuệ hiểu
biết rõ nghiệp và quả của nghiệp trong khi đang đem vật thí bố thí, cúng dường
đến người khác.
- Ñāṇavippāyuttadāna: bố thí không hợp với trí: thí chủ không có
trí tuệ hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp trong khi đang đem vật thí bố
thí, cúng dường đến người khác.
Sasaṅkhārikadāna – Asaṅkhārikadāna.
- Sasaṅkhārikadāna: bố thí do người khác động viên khuyến
khích: còn tự mình không nghĩ đến việc bố thí. Người khác đến động viên
khuyến khích mình bố thí, khi ấy mới phát sanh đức tin làm phước thiện bố thí.
- Asaṅkhārikadāna: bố thí do tự mình nghĩ: không có người nào
động viên, khuyến khích. Tự mình nghĩ đến việc bố thí, rồi phát sanh đức tin
trong sạch làm phước thiện bố thí.
Trong hai loại phước thiện bố thí này Asaṅkāri-kadāna có năng lực phước thiện bố
thí mạnh hơn Sasaṅkhārikadāna.
Somanassadāna – Upekkhādāna:
- Somanassadāna: bố thí đồng sanh với hỉ: bố thí
bằng đức tin trong sạch, nên đại thiện tâm đồng sanh với tâm hoan hỉ trong việc
phước thiện bố thí ấy, vì cảm thấy hài lòng nơi người thọ thí và vật thí của
mình.
- Upekkhādāna: bố thí đồng sanh với xả: bố thí bằng đức tin, song đại
thiện tâm đồng sanh với xả, vì không cảm thấy hài lòng nơi người thọ thí, hoặc
vật thí của mình.
Trong hai loại bố thí này, nếu dục giới thiện nghiệp, thì somanassadāna có năng
lực phước thiện bố thí mạnh hơn upekkhādāna; còn trong sắc giới thiện nghiệp
thì upekkhādāna có năng lực phước thiện bố thí mạnh hơn somanassadāna.
Dhammiyadāna – Adhammiyadāna.
- Dhammiyadāna: bố thí những vật thí hợp pháp: của
cải phát sanh một cách hợp pháp, đem làm phước thiện bố thí, phước thiện này
trong sạch, không bị ô nhiễm bởi ác pháp.
- Adhammiyadāna: bố thí những vật thí phi pháp: của cải phát sanh một
cách phi pháp, như trộm cắp, lường gạt... đem làm phước thiện bố thí, phước
thiện này không hoàn toàn trong sạch, bị ô nhiễm bởi ác pháp.
Kāladāna – Akāladāna.
- Kāladāna: bố thí đúng thời, đúng lúc, đúng thời gian quy định như:
* Vassikasātikadāna: bố thí dâng y tắm mưa: Ðức Phật cho phép Tỳ
khưu nhận y tắm mưa kể từ ngày 01 tháng 6 đến ngày 15 tháng 6 (AL) là hết hạn.
Trong khoảng thời gian 15 ngày ấy, chư Tỳ khưu chỉ có thể nhận y tắm mưa 1 lần
trong một ngày nào đó mà thôi. Vì vậy, thí chủ cũng chỉ có thể bố thí dâng y
tắm mưa trong khoảng thời gian 15 ngày.
* Kathinadāna: bố thí dâng y kathina: Ðức Phật cho phép Tỳ khưu Tăng sau
khi đã an cư suốt ba tháng mùa mưa, tại một nơi nào rồi, được phép nhận lãnh y
kathina, kể từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng 10 (AL). Trong khoảng thời
gian một tháng ấy, chư Tỳ khưu Tăng chỉ có thể thọ lãnh y kathina 1 lần trong
một ngày nào đó mà thôi, còn lại các ngày khác, không thể thọ lãnh y kathina
được nữa.
* Gilānabhatta: bố thí vật thực đến Tỳ khưu trong thời gian đang lâm
bệnh.
* Āgantukabhatta: bố thí vật thực đến Tỳ khưu khách từ xa mới đến.
* Gamikabhatta: bố thí vật thực đến Tỳ khưu sắp đi xa....
Những sự bố thí này đúng thời đúng lúc.
- Akāladāna: bố thí không quy định thời gian.
Thí chủ bố thí bất cứ lúc nào, đến bất cứ người nào khi muốn bố thí.
Trong hai loại phước thiện bố thí này, kaladāna có quả báu của phước thiện bố
thí rất đặc biệt hơn akāladāna như: cho quả báu tốt lành từ thuở ấu niên, được
giàu sang phú quý, có những gì mà người khác khó có, được những gì mà người
khác khó được, khi cần thứ nào có ngay thứ ấy, đúng lúc đúng thời.
Trong phần kāladāna, kathinadāna: bố thí dâng y kathina có quả báu đặc biệt.
Thông thường, các loại phước thiện bố thí, quả báu chỉ có thể phát sanh đến thí
chủ mà thôi. Song kathinadāna: phước thiện bố thí dâng y kathina, quả báu đặc
biệt phát sanh không những cho thí chủ, mà còn có quả báu đặc biệt phát sanh
đến cho chư Tỳ khưu Tăng thọ thí nữa.
Ðức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã an cư nhập hạ một nơi suốt 3
tháng mùa mưa, không bị đứt hạ, chư Tỳ khưu Tăng có thể thọ nhận y kathina,
trong thời gian hạn định chỉ một tháng kể từ ngày 16 tháng 9 đến 15 tháng 10 âm
lịch.
Như vậy, trong một năm có 12 tháng, chỉ có 1 tháng (kể từ ngày 16 tháng 9 đến 15
tháng 10 âm lịch) làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng; còn 11 tháng khác
không làm lễ dâng y kathina được. Trong 1 tháng có 30 ngày, chư Tỳ khưu Tăng ở
trong một ngôi chùa (hoặc một nơi nào) chỉ có thể thọ nhận y kathina một lần
trong một ngày nào đó mà thôi, còn lại 29 ngày khác không thể thọ nhận y
kathina được.
Cho nên, thí chủ có cơ hội làm phước dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng có được
nhiều phước thiện, có nhiều quả báu đặc biệt hơn các sự bố thí khác.
Nhóm bố thí có ba loại:
Ví dụ:
Hīnadāna – Majjhimadāna – Paṇītadāna.
- Hīnadāna: bố thí bậc thấp: trong khi bố thí thiện tâm hợp với 4 pháp
là:
* Chanda: tâm hài lòng trong việc bố thí,
* Vīriya: tinh tấn trong việc bố thí,
* Citta: quyết tâm trong việc bố thí,
* Vimanisa: trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp và quả của nghiệp,
có tính chất thấp kém, nên gọi bố thí bậc thấp, có quả báu bậc thấp.
- Majjhimadāna: bố thí bậc trung: trong khi bố thí, thiện tâm hợp với 4
pháp: hài lòng, tinh tấn, quyết tâm, trí tuệ, có tính chất trung bình, nên gọi
bố thí bậc trung, có quả báu bậc trung.
- Paṇītadāna: bố thí bậc cao quý: trong khi bố thí, thiện tâm hợp
với 4 pháp: hài lòng, tinh tấn, quyết tâm, trí tuệ có tính chất cao quý, nên
gọi bố thí bậc cao quý, có quả báu bậc cao quý.
Dānadāsi – Dānasahāya – Dānasāmi.
- Dānadāsi: bố thí như cho đến kẻ tôi tớ: thí chủ thường dùng những đồ
tốt, còn đem những đồ xấu bố thí đến người khác. Ví như người chủ dùng đồ tốt,
còn cho đồ xấu đến kẻ tôi tớ.
- Dānasahāya: bố thí như tặng đến bạn thân: thí chủ dùng những đồ vật như
thế nào, bố thí đến người khác những đồ vật như thế ấy. Ví như thí chủ dùng
những đồ vật như thế nào, tặng cho bạn thân những đồ vật cũng như thế ấy.
- Dānasāmi: bố thí như biếu đến người chủ: thí chủ thường dùng những đồ
vật xấu, còn đem những đồ vật tốt, quý giá bố thí cúng dường đến người khác. Ví
như người nhỏ kính biếu những đồ vật quý giá đến người lớn, bậc đáng kính
trọng.
Mỗi loại phước thiện bố thí đều có quả báu thấp, trung, cao khác nhau. v.v....
Bậc Thiện trí bố thí có 5 chi
1- Saddhadāna: bậc Thiện trí bố thí có đức tin trong sạch nơi nghiệp và
quả của nghiệp.
Bố thí bằng đức tin này có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là có sắc
thân xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng.
2- Sakkaccadāna: bậc Thiện trí bố thí bằng sự cung kính, và vật thí phát
sanh một cách trong sạch.
Bố thí bằng sự cung kính có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là toàn
thể gia đình vợ con, tôi tớ, bà con, bạn bè, thuộc hạ... cả thảy đều ngoan
ngoãn vâng lời, dễ dạy.
3- Kāladāna: bậc Thiện trí bố thí đúng thời, đúng lúc như trong các lễ
dâng y tắm mưa, dâng y kathina, bố thí đến Tỳ khưu khách, Tỳ khưu đi xa, Tỳ
khưu bệnh, người bệnh, người đang đói khát....
Bố thí cúng dường đúng thời, đúng lúc, có quả báu giàu sang phú quý; và đặc biệt
nhất là có quả báu tốt lành từ thuở ấu niên cho đến lão niên, có những vật mà
người khác khó có, được những vật mà người khác khó được....
4- Anuggahadāna: bậc Thiện trí bố thí với tâm tế độ người thọ thí.
Bố thí với tâm tế độ, có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là quan tâm
đến sự hưởng thụ của cải cho được an lạc.
5- Anupahaccadāna: bậc Thiện trí bố thí không làm khổ mình, không làm khổ
người.
Bố thí không làm khổ mình, không làm khổ người có quả báu giàu sang phú quý, và
đặc biệt nhất là tất cả của cải không bị thiệt hại do bởi lửa thiêu hủy, không
bị nước ngập lụt cuốn trôi, không bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không bị Ðức Vua
tịch thu, không bị người không ưa thích tranh giành.
Như trong kinh Sappurisadānasutta [Aṅguttaranikāya, phần 5 chi, kinh
Sappurisadānasutta], Ðức Phật dạy:
Này chư Tỳ khưu, bậc Thiện trí làm phước thiện bố thí bằng đức tin trong sạch sẽ
được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt là người có sắc thân
rất xinh đẹp, có màu da mịn màng trắng trẻo sạch sẽ, đáng để cho mọi người
ngưỡng mộ.
Bậc Thiện trí làm phước thiện bố thí bằng sự cung kính sẽ được quả báu nhiều tiền
của, giàu sang phú quý và đặc biệt vợ con tôi tớ, người làm công, bè bạn,
v.v... đều lắng nghe và cung kính vâng lời làm theo lời khuyên dạy.
Bậc Thiện trí làm phước thiện bố thí hợp thời, hợp lúc, sẽ được quả báu nhiều
tiền của giàu sang phú quý và đặc biệt khi cần được thứ gì sẽ có được thứ ấy
theo sự mong muốn của mình.
Bậc Thiện trí làm phước thiện bố thí với tâm tế độ người thọ thí, sẽ được quả báu
nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đaëc biệt là người ấy thường quan tâm đến
sự thọ hưởng của cải, đầy đủ sung túc ngũ trần.
Bậc Thiện trí làm phước thiện bố thí không làm khổ đến mình và người sẽ được quả
báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý, và đặc biệt tất cả của cải tài sản không
bị thiệt hại bởi lửa cháy, nước lụt, trộm cướp, vua chiếm đoạt và kẻ không ưa
thích phá hoại.
Này các Tỳ khưu đó là 5 cách phước thiện bố thí của bậc Thiện trí và quả báu của
nó.
Hạng người thiểu trí bố thí có 5 chi
1- Asaddhadāna: người thiểu trí bố thí không có đức tin trong sạch nơi
nghiệp và quả của nghiệp.
Bố thí không có đức tin này cũng có quả báu giàu có, nhưng có sắc thân xấu xí
không đáng ngưỡng mộ.
2- Asakkaccadana: người thiểu trí bố thí không cung kính, vật thí phát
sanh không trong sạch.
Bố thí không cung kính cũng cho quả báu giàu có, nhưng lời nói bị coi thường,
những người trong gia đình cũng như người khác không vâng lời làm theo.
3- Akāladāna: người thiểu trí bố thí cúng dường không đúng thời, không
đúng lúc.
Bố thí không đúng thời, không đúng lúc cũng có quả báu giàu có, nhưng khi cần
đến vật gì, không được vật ấy như ý.
4- Anuggahadāna: người thiểu trí bố thí không có tâm tế độ.
Bố thí không có tâm tế độ cũng có quả báu giàu có, nhưng tâm không nghĩ đến sự
hưởng thụ của cải cho được an lạc.
5- Upahaccadāna: người thiểu trí bố thí làm khổ mình, khổ người.
Bố thí làm khổ mình, khổ người cũng có quả báu giàu có, nhưng của cải dễ bị
thiệt hại do bởi lửa thiêu hủy, nước ngập lụt cuốn trôi, bị kẻ trộm cướp chiếm
đoạt, Ðức Vua tịch thu, người không ưa thích phá hoại.
5 đại thí (mahādāna)
1- Không sát sanh gọi là đại thí. Bởi vì người không sát sanh là người bố
thí sự an toàn tánh mạng cho tất cả chúng sinh, dầu nhỏ hay lớn; là bố thí sự
không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả chúng sinh.
2- Không trộm cắp gọi là đại thí. Bởi vì người không trộm cắp là người bố
thí sự an toàn của cải riêng của mọi người, lẫn của chung của xã hội, của quốc
gia dân tộc; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc
đến tất cả mọi người.
3- Không tà dâm gọi là đại thí. Bởi vì người không tà dâm với vợ chồng
của người khác, là người bố thí sự an toàn, tôn trọng hạnh phúc gia đình của
người khác; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến
tất cả mọi người.
4- Không nói dối gọi là đại thí. Bởi vì người không nói dối người khác là
người bố thí lời chân thật, đem lại niềm tin đối với mọi người; là bố thí sự
không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả mọi người.
5- Không uống rượu và chất say, nhân sanh dể duôi quên mình gọi là đại thí.
Bởi vì người không uống rượu và chất say, là người có trí nhớ, trí tuệ, biết
mình không làm những điều tội ác như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... là
người bố thí sự an toàn cho tất cả chúng sinh; là bố thí sự không tai hại,
không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả chúng sinh.
Năm đại thí này có quả báu lớn là được vẹn toàn tất cả như: không bị tai hại,
không bị oan trái, không ai làm khổ mình....
Trường Cửu Thí (thāvaradāna)
Trường cửu thí: là bố thí những vật có tính chất bền vững lâu dài
theo thời gian và không gian, thì phước thiện bố thí cũng tăng trưởng theo thời
gian và không gian ấy. Nghĩa là, vật thí còn tồn tại chừng nào, thì phước thiện
ngày đêm cũng tăng trưởng chừng ấy.
Trường cửu thí (thāvaradāna) có 6 loại:
1- Ārāmaropadāna: làm phước thiện bố thí trồng những cây ăn quả, những
cây cho bóng mát ở trong vườn.
2- Vanaropadāna: làm phước thiện bố thí trồng cây gỗ quý như: cẩm lai,
cây sao... thành rừng cây.
3- Setukārakadāna: làm phước thiện bố thí xây cầu nối liền hai bên bờ
sông để người qua lại được thuận lợi ngày đêm.
4- Papadāna: làm phước thiện bố thí hũ nước uống đặt bên đường để cho
người qua, kẻ lại uống đỡ khát nước.
5- Udapānadāna: làm phước thiện bố thí đào giếng lấy nước dùng, nước uống
cho mọi người.
6- Upassayadāna: làm phước bố thí xây cất nhà nghỉ, nhà trọ, chùa, chỗ ở
dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng từ bốn phương.
Những vật thí này có tính chất bền vững lâu dài theo thời gian và không gian,
gọi là trường cửu thí, đem lại sự lợi ích, sự an lạc cho mọi người. Cho nên,
phước thiện của thí chủ được tăng trưởng suốt ngày đêm không ngừng nghỉ.
Quả Báu Bố Thí
Trong kinh Dānānisaṃsasutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh
Dānānisaṃsāsutta] dạy:
Thí chủ làm phước thiện bố thí có được 5 quả báu kiếp hiện tại và kiếp vị lai
như sau:
1- Thí chủ được nhiều người hài lòng kính mến.
2- Bậc Thiện trí thường gần gũi tế độ thí chủ.
3- Tiếng lành, tiếng tốt của thí chủ được lan truyền.
4- Thí chủ không sao nhãng việc hành pháp của người tại gia.
5- Thí chủ sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả được tái sanh nơi cõi trời
dục giới, hưởng sự an lạc trong cõi trời.
Quả báu phước thiện bố thí vật thực
Trong kinh Bhojanadānasutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh
Bhojanadānasutta] dạy:
Thí chủ làm phước thiện bố thí vật thực, gọi là bố thí 5 pháp đến cho người thọ
thí.
1- Bố thí sự sống lâu: nhờ vật thực nên duy trì
được mạng sống.
2- Bố thí sắc đẹp: nhờ vật thực nên mặt mày tươi tỉnh, sắc thân hồng hào
xinh đẹp.
3- Bố thí sự an lạc: nhờ vật thực nên thân tâm có được sự an lạc.
4- Bố thí sức mạnh: nhờ vật thực nên có được sức mạnh của thân, tâm.
5- Bố thí trí tuệ: nhờ vật thực nên tâm được an tịnh, trí tuệ sáng suốt.
Khi thí chủ bố thí sự sống lâu rồi, sẽ có được tuổi thọ sống lâu trong cõi người
và tuổi thọ trong cõi trời.
Khi bố thí sắc đẹp rồi, sẽ có được sắc đẹp trong cõi người và sắc đẹp trong cõi
trời.
Khi bố thí sự an lạc rồi, sẽ có được thân tâm an lạc trong cõi người và an lạc
trong cõi trời.
Khi bố thí sức mạnh rồi, sẽ có được sức mạnh của thân tâm trong cõi người và sức
mạnh của thân tâm trong cõi trời.
Khi bố thí trí tuệ rồi, sẽ có được trí tuệ, có tài ứng đối nhanh, khiến cho
người nghe kính phục.
Quả báu bố thí trong kiếp hiện tại
Kinh Sīhasenāpatisutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Sīhasenāpatisutta]
dạy:
Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa trong khu rừng lớn gần thành Vesāli.
Khi ấy, vị thừa tướng Sīha đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn bèn bạch rằng:
Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có thể thuyết giảng cho con thấy được quả báu của sự
bố thí ngay trong kiếp hiện tại không?
- Ðức Phật dạy rằng: Có thể được!
Này thừa tướng Sīha, thí chủ là người được phần đông mọi người thương yêu kính
mến. Ðó là quả báu của phước bố thí hưởng trong kiếp hiện tại.
Này thừa tướng Sīha, chư bậc Thiện trí thường đến tế độ thí chủ. Ðó là quả báu
của phước bố thí hưởng trong kiếp hiện tại.
Này thừa tướng Sīha, danh thơm tiếng tốt của thí chủ được lan truyền khắp mọi
nơi. Ðó là quả báu của phước bố thí hưởng trong kiếp hiện tại.
Này thừa tướng Sīha, thí chủ đi vào hội đoàn nào như Vua chúa, Sa môn, Bà la môn,
cư sĩ có tâm dũng cảm, không rụt rè. Ðó là quả báu của phước bố thí hưởng trong
kiếp hiện tại.
Này thừa tướng Sīha, thí chủ sau khi chết, do phước bố thí cho quả được tái sanh
cõi thiện giới, cõi trời dục giới. Ðó là quả báu của phước bố thí hưởng trong
những kiếp sau.
Nghe Ðức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, vị thừa tướng Sīha bạch rằng:
Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài thuyết giảng quả báu bốn điều trước, không phải con
tin, mà chính con đã thấy rằng: con là thí chủ được phần đông mọi người thương
yêu kính mến, chư bậc Thiện trí thường đến tế độ con, danh thơm tiếng tốt của
con được lan truyền khắp mọi nơi rằng: "Thừa tướng Sīha là thí chủ thường cúng
dường đến chư Ðại Ðức Tăng...", con đi vào hội đoàn Vua chúa, Sa môn, Bà la
môn, cư sĩ với tâm dũng cảm, không rụt rè.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, bốn quả báu của phước bố thí mà con đã thấy rõ trong kiếp
hiện tại này, đúng như những điều mà Ðức Thế Tôn đã thuyết giảng. Và điều thứ
năm mà Ngài thuyết giảng: "Thí chủ sau khi chết, do phước bố thí cho quả được
tái sanh cõi thiện giới, cõi trời dục giới", điều ấy con chưa thấy, nhưng con
có đức tin theo Ðức Thế Tôn.
Ðức Phật khẳng định lại một lần nữa rằng:
Ðúng như vậy! Này thừa tướng Sīha.
Ðúng như vậy! Này thừa tướng Sīha, thí chủ sau khi chết, do phước bố thí cho quả
được tái sanh cõi thiện giới, cõi trời dục giới,....
NHỮNG ĐẠI THÍ CHỦ XUẤT SẮC VỀ HẠNH BỐ THÍ
Tích ông phú hộ Anāthapiṇḍika
Tiền thân của ông phú hộ Anāthapiṇṇika là một cận sự nam trong thời Ðức Phật
Padumuttara [thời kỳ Ðức Phật Padumuttara thời gian cách Ðức Phật Gotama 100
ngàn đại kiếp, trải qua 14 Ðức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian] xuất hiện
trên thế gian. Một hôm, ông ngồi lắng nghe Ðức Phật thuyết pháp; nhân dịp ấy,
Ðức Phật tuyên dương công đức một cận sự nam là thí chủ xuất sắc nhất về hạnh
hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam thí chủ đệ tử của Ngài. Nghe thấy xong,
ông vô cùng hoan hỉ, có nguyện vọng muốn trở thành người cận sự nam thí chủ
xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam của một Ðức Phật
trong thời vị lai.
Người cận sự nam (tiền thân của ông phú hộ Anāthapiṇṇika) ấy, kính thỉnh
Ðức Phật Padumuttara cùng chư Ðại Ðức Tăng làm phước thiện bố thí, ông phát
nguyện muốn trở thành người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố
thí, như người cận sự nam thí chủ của Ngài. Ðức Phật Padumuttara dùng Phật nhãn
thấy rõ kiếp vị lai của người cận sự nam này nên thọ ký rằng:
Thời vị lai, Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người cận sự nam này sẽ trở
thành cận sự nam thí chủ suất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong
hàng cận sự nam của Ðức Phật Gotama.
Người cận sự nam ấy vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện bố thí cho đến trọn đời.
Từ thời kỳ Ðức Phật Padumuttara cho đến Ðức Phật Gotama thời gian cách 100 ngàn
đại kiếp trái đất, trải qua 14 Ðức Phật, người cận sự nam ấy, trong vòng tử
sanh luân hồi, do phước thiện cùng nguyện lực thường được tái sanh làm thiên
nam trong cõi trời, hoặc người nam cõi người, trong gia đình phú hộ, có đức tin
trong sạch, thường hoan hỉ trong việc làm phước thiện bố thí.
Kiếp hiện tại, tái sanh làm con trai trong gia đình phú hộ Sumana, cha mẹ đặt
tên Sudatta. Cậu Sudatta, con phú hộ, lập ra một trại bố thí, hằng ngày phân
phát vật thực cho những người cô độc không nơi nương tựa. Do đó, người đời tặng
ông cái tên mới Anāthapiṇṇika, về sau, phần đông mọi người biết đến tên mới
này, còn tên cũ do cha mẹ đặt ít ai biết đến.
Một lần, phú hộ Anāthapiṇṇika dẫn đầu 500 cỗ xe chở hàng đến kinh thành
Rājagaha, bán cho phú hộ trong kinh thành ấy, vốn là anh em rể với nhau.
Trong dịp ấy, phú hộ Anāthapiṇṇika được nghe tin lành "Buddho" Ðức
Phật đã xuất hiện trên thế gian, vừa nghe danh hiệu "Buddho" ông
phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nghĩ rằng: "trong thế gian này nghe được danh
hiệu "Buddho" hiếm có lắm, khó lắm!". Ông muốn đến hầu Ðức Phật
ngay, nhưng vì ban đêm không tiện, nên nằm chờ đến sáng. Trong lúc nằm ông chỉ
niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Buddho", nên tâm phát sanh ánh sáng,
ông tưởng đã gần sáng liền thức dậy, ông đi đến hầu Ðức Phật vào canh chót đêm.
Ðức Phật biết rõ ông Anāthapiṇṇika sắp đến, Ngài đi kinh hành xong ngồi chờ ông.
Ông vừa đến gần, Ðức Phật gọi:
- Ehi Sudatta! Này Sudatta, con hãy lại đây!
Nghe Ðức Phật gọi đích danh Sudatta, ông vô cùng hoan hỉ, bởi từ lâu mọi người
chỉ biết ông với cái tên Anāthapiṇṇika mà thôi; còn tên thật của ông do cha mẹ
đặt, mọi người không ai nhắc đến. Nay, nghe Ðức Phật gọi tên thật của mình, nên
ông liền phát sanh đức tin trong sạch, hết lòng tôn kính Ðức Phật, đến hầu đảnh
lễ dưới hai bàn chân của Ngài.
Khi ấy, Ðức Phật thuyết pháp tế độ ông, ông lắng nghe, thực hành theo liền chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở
thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông tán dương ca tụng Ðức Phật rằng:
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con thật vô cùng hoan hỉ!
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con thật vô cùng hoan hỉ!
Ðức Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật
bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang lạc
đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối cho người có đôi mắt sáng được
nhìn thấy tất cả mọi vật hiện hữu.
Con xin nguyện hết lòng thành kính xin quy y nương nhờ nơi Ðức Thế Tôn, nơi Ðức
Pháp, nơi Ðức Tăng.
Kính xin Ðức Thế Tôn chấp thuận con là người cận sự nam đã quy y Tam bảo kể từ
nay cho đến trọn đời.
Ông Anāthapiṇṇika đã quy theo cách siêu tam giới quy y (lokuttarasaraṇagamana).
Ông kính thỉnh Ðức Phật cùng 1.000 chư Ðại Ðức Tăng cúng dường vật thực vào hôm
sau. Nhân dịp ấy, ông kính thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến kinh
thành Sāvatthi để tế độ dân chúng nơi đó. Ðức Phật nhận lời bằng cách làm
thinh.
Từ kinh thành Rājagaha đến kinh thành Sāvatthi cách xa 45 do tuần [1 do tuần
khoảng 20.482,56 mét hoặc 12,72 miles]. Mỗi do tuần ông bỏ ra số tiền 100 ngàn
kahāpana (tiền Ấn) nhờ những người bạn thân xây cất một ngôi chùa, để Ðức Phật
cùng chư Ðại Ðức Tăng nghỉ chân. Khi ông về đến kinh thành Sāvatthi, ông chọn
khu vườn của ông hoàng Jeta, rồi mua khoảng đất ấy, bằng cách lót vàng trên mặt
đất, ông đã xuất kho vàng trị giá khoảng 180 triệu đồng vàng để mua đất, 180
triệu để xây cất ngôi chùa, đặt tên chùa Jetavana, và chi phí thêm số tiền 180
triệu để tổ chức lễ khánh thành dâng ngôi chùa ấy đến chư Tăng tứ phương, có
Ðức Phật chủ trì chứng minh và làm phước bố thí kéo dài suốt 3 tháng.
Như vậy, đại thí chủ Anāthapiṇṇika hiến dâng tổng số tiền 540 triệu làm phước bố
thí: mua đất, cho xây cất chùa Jetavana và tổ chức lễ khánh thành, làm phước bố
thí.
Trong tư thất của ông thường có làm các loại bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng như:
Hằng ngày dâng vật thực bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng vật thực 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng cháo sáng bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng cháo sáng 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng vật thực đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu khách mới đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu sắp đi xa 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu bệnh 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bệnh 500 vị.
Như vậy, trong tư thất phú hộ Anāthapiṇṇika luôn luôn sửa soạn sẵn 500 chỗ ngồi
để đón tiếp chư Tỳ khưu.
Trong dịp chư Tăng hội họp, Ðức Phật tuyên dương công đức ông phú hộ
Anāthapiṇṇika:
"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ upāsakānaṃ dāyakānaṃ yadidaṃ Sudatto
gahapati Anāthapiṇṇiko".
"Này chư Tỳ khưu, trong hàng nam Thanh Văn cận sự nam của Như Lai, Anāthapiṇṇika
tên thật Sudatta là người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố
thí".
Phú hộ Anāthapiṇṇika, mỗi ngày 2-3 lần đến chùa Jetavana hầu Ðức Phật hoặc thăm
viếng chư Ðại Ðức, Tỳ khưu, Sa di, nếu có bận rộn nhiều công việc, thì ít nhất
cũng một lần, không có ngày nào mà ông không đến chùa, thành thói quen thường
ngày của ông. Mỗi lần đến chùa, ông phú hộ thường mang theo những vật dụng cần
thiết dâng cúng đến Ðức Phật, hoặc chư Tỳ khưu, Sa di.
Ðến ngày cuối cùng cuộc đời ông phú hộ Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, nằm
trên giường, không thể đến chùa được, ông nhờ một người thân tín bảo rằng:
Này con, con hãy đến chùa, đảnh lễ dưới chân Ðức Thế Tôn bạch rằng: "Ông
Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đến đảnh
lễ dưới chân Ngài.
Và con đến đảnh lễ dưới chân Ngài Ðại Ðức Sāriputta bạch rằng: "Ông Anāthapiṇṇika
đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đảnh lễ dưới chân Ngài,
kính thỉnh Ngài đến nhà ông với tâm bi tế độ ông".
Ngài Sāriputta nhận lời bằng cách làm thinh, rồi gọi Ðại Ðức Ānanda cùng đi theo
đến nơi biệt thự của ông Anāthapiṇṇika, thăm hỏi bệnh tình của ông, Ngài
Sāriputta thuyết pháp tế độ ông. Ông vô cùng hoan hỉ theo lời dạy của Ngài Ðại
Ðức Sāriputta.
Phú hộ Anāthapiṇṇika vô cùng cảm kích trước tấm lòng bi mẫn của Ngài Ðại Ðức
Sāriputta, đã đến thuyết pháp tế độ ông trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời.
Ngài Ðại Ðức Sāriputta với Ngài Ðại Ðức Ānanda từ giã ông phú hộ Anāthapiṇṇika
không lâu, thì ông phú hộ Anāthapiṇṇika từ giã cuộc đời. Sau khi chết, do thiện
nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nam ở cõi trời Tusita (Ðâu suất đà thiên),
có sắc thân hào quang sáng ngời, trong lâu đài nguy nga tráng lệ đặc biệt hơn
các thiên nam khác.
Vào canh chót đêm hôm ấy, thiên nam Anātha-piṇṇika từ cõi trời Tusita hiện xuống
chùa Jetavana với ánh hào quang sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, đứng
một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, tán dương ân
đức Ngài Ðại Ðức Sāriputta, rồi đảnh lễ Ðức Thế Tôn xin phép trở về cõi Tusita.
Sáng hôm sau, Ðức Phật dạy chư Tỳ khưu rằng:
- Này chư Tỳ khưu, canh chót đêm qua, có vị thiên nam đến hầu đảnh lễ Như Lai,
đứng một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, tán dương
ân đức Sāriputta, rồi đảnh lễ Như Lai xin phép trở về cõi trời Tusita.
Ngài Ðại Ðức Ānanda đoán biết vị thiên nam ấy là ai, nên bạch Ðức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, có phải vị thiên nam ấy là vị thiện nam Anāthapiṇṇika
không? Bạch Ngài.
Ðức Thế Tôn dạy:
- Ðúng vậy Ānanda! Vị thiên nam ấy chính là Anāthapiṇṇika.
Vị thiên nam Anāthapiṇṇika là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát
nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tự các tầng trời dục giới cho đến các tầng
trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn nơi cõi
này. Do đó, vị thiên nam Anāthapiṇṇika, khi tái sanh đến cõi Tha hoá tự tại
thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, vị thiên nam ấy tiến
hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm
thiên cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên (Brahmaparisajjā); tiếp tục
tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi
trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh
lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới
đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Ðạo
– Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc
giới Tịnh cư thiên (Suddhavāsa) có 5 tầng trời theo tuần tự Vô phiền
thiên – Vô nhiệt thiên – Thiện hiện thiên – Thiện kiến thiên và đến tầng Sắc
cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc
A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết
tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi
trong tam giới.
Tích bà đại thí chủ Visākhā
Ở thời kỳ Ðức Phật Padumuttara, tiền kiếp bà cận sự nữ Visākhā đã từng phát
nguyện mong trở thành cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố
thí trong hàng cận sự nữ của một Ðức Phật trong thời vị lai. Bà được Ðức Phật
Padumuttara thọ ký.
Từ kiếp đó về sau, trong vòng tử sanh luân hồi suốt 100 ngàn đại kiếp, do thiện
nghiệp cho quả thường tái sanh làm thiên nữ cao quý cõi trời hoặc cõi người là
con gái trong gia đình phú hộ, bà có đức tính hoan hỉ trong việc bố thí.
Kiếp hiện tại, tái sanh làm con gái của phú hộ Dhanañjaya tại kinh thành
Bhaddiya, xứ Aṅga, đặt tên là Visākhā. Cô Visākhā mới lên bảy tuổi đi cùng với
ông nội, phú hộ Meṇṇaka, đến nghe Ðức Phật thuyết pháp xong, cô cùng với 500 cô
bạn gái đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông phú hộ Meṇṇaka cũng chứng
đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng lúc ấy.
Theo sự yêu cầu của đức vua Pasenadikosala xứ Sāvatthi, toàn thể gia đình của cô
Visākhā di chuyển đến xứ Sāvatthi, tạo lập thành phố Sāketa sinh sống.
Cô Visākhā trưởng thành kết hôn cùng với cậu Puṇṇavaṇṇhana con trai của phú hộ
Migāra trong xứ Sāvatthi.
Cô về làm dâu trong gia đình Migāra, là gia đình theo phái ngoại đạo loã thể,
không có đức tin nơi Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng.
Một hôm, chư Ðại Ðức đi khất thực đứng trước ngôi biệt thự cha chồng, cha chồng
vẫn ngồi dùng vật thực ngon lành không hề quan tâm đến vị Ðại Ðức khất thực,
nàng Visākhā nhìn thấy vậy nên bạch rằng:
- Aticchatha Bhante, mayhaṃ sasuro purāṇam khādati
(Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura)
Kính bạch Ngài, kính thỉnh Ngài hoan hỉ sang nhà khác, cha chồng của con dùng đồ
cũ.
Ông phú hộ Migāra nghe con dâu của mình nói "Purāṇam khādati: dùng đồ cũ", ông
hiểu ý nghĩa là "Asucikhādakaṃ: dùng đồ dơ". Ông tức giận quyết định đuổi nàng
dâu ra khỏi nhà. Nhưng không dễ dàng như ông nghĩ, vì khi cô Visākhā về nhà
chồng, thân phụ của cô gởi theo 8 vị luật sư. Mỗi khi xảy ra chuyện gì có 8 vị
luật sư xét xử cô có tội hay vô tội.
Ông phú hộ Migāra mời 8 vị luật sư xét hỏi về điều cô nói "Purāṇam khādati" có ý
nghĩa gì?
Cô Visākhā giải thích rằng:
- Mayhaṃ sasuro imasmiṃ attabhāve puññaṃ na karoti,
purāṇapuññameva khādati
[Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura].
"Cha chồng của con, kiếp hiện tại này không làm phước thiện bố thí, chỉ hưởng quả
của phước thiện bố thí cũ mà thôi.", hoàn toàn không có ý "dùng đồ dơ"
như ông hiểu lầm. Như vậy, các luật sư phán xét cô hoàn toàn vô tội. Ông Migāra
trình bày những lỗi khác của nàng dâu; những luật sư xét xử cô đều vô tội,
chẳng qua là sự hiểu lầm của phú hộ mà thôi.
Cô Visākhā thưa rằng:
- Kính thưa quý vị luật sư, trước đây, cha chồng của con hiểu lầm rằng con có
tội, đuổi con ra khỏi nhà. Qua sự xét xử, con là người hoàn toàn vô tội, nay
con xin từ giã ngôi biệt thự này, trở về nhà cha mẹ của con.
Ông phú hộ Migāra khẩn khoản xin con dâu miễn chấp rằng:
- Này con, cha đã hiểu lầm, nên bắt tội con, nay cha đã biết mình có lỗi đối với
con, xin con miễn chấp lỗi cho cha.
Nàng Visākhā thưa với cha chồng rằng:
- Thưa cha, con sẵn sàng miễn chấp lỗi của cha, xin cha cho con một đặc ân: con
là người cận sự nữ đã quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc nơi Ðức Phật, Ðức
Pháp, Ðức Tăng. Cho nên, con không thể sống thiếu Ðức Phật, thiếu nghe pháp, và
thiếu tạo phước thiện bố thí cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng. Nếu cha muốn con
ở lại đây, xin cha cho phép con được chiêm bái Ðức Phật, nghe pháp, làm phước
thiện bố thí cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng. Nếu không con sẽ rời khỏi nơi
đây.
- Này con, cha chấp thuận theo yêu cầu của con, con được chiêm bái Ðức Phật, nghe
pháp và thỉnh chư Ðại Ðức Tăng về nhà làm phước. – Ông phú hộ Migāra
bảo.
Hôm sau, nàng Visākhā thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng đến nhà dâng cúng vật
thực. Khi thọ thực xong, nàng Visākhā cho người mời cha chồng đến nghe Ðức Phật
thuyết pháp. Ông sửa soạn đi, thì vị Ðạo Sư phái ngoại đạo loã thể ngăn lại.
Mặc dầu vậy, Ðức Phật thuyết pháp ông vẫn nghe rõ ràng từng tiếng, từng câu.
Khi Ðức Phật thuyết pháp xong, ông liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu ngay
khi ấy.
Ông phú hộ Migāra đến hầu Ðức Phật, đảnh lễ dưới hai bàn chân Ngài bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.
Trước sự hiện diện của Ðức Phật, ông thưa với nàng dâu rằng:
- Này con, kể từ nay con ở ngôi vị là mẹ của ta.
Từ đó nàng Visākhā thêm vào tên là Visākhā Migāramātā: nàng Visākhā mẹ phú hộ
Migāra.
Bà Visākhā Migāramātā có 20 đứa con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi đứa con
trai, mỗi đứa con gái có 20 người con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi cháu
trai, mỗi cháu gái lại có 20 người con: 10 con trai, 10 con gái. Như vậy, bà
Visākhā Migāramātā có 20 người con, 400 người cháu và 8.000 người chắt.
Bà Visākhā Migāramātā thường hoan hỉ trong mọi phước thiện bố thí.
Một thuở nọ, bà đến đảnh lễ Ðức Phật xin phép 8 đặc ân:
1- Xin dâng y tắm mưa đến chư Tỳ khưu trọn đời.
2- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu khách mới đến.
3- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu sắp đi xa.
4- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu lâm bệnh.
5- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bị bệnh.
6- Xin dâng thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu mắc bệnh.
7- Hằng ngày xin dâng cháo buổi sáng đến chư Tỳ khưu.
8- Xin dâng y tắm đến chư Tỳ khưu ni Tăng.
Tám đặc ân này được Ðức Phật cho phép, bà Visākhā vô cùng hoan hỉ trong mọi việc
làm phước thiện bố thí này.
Một dịp nọ, đến chùa nghe Ðức Phật thuyết pháp, bà Visākhā mang theo một tấm
choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý. Bà cởi trao cho đứa tớ gái, vào
đảnh lễ Ðức Thế Tôn, ngồi nghe pháp, nghe xong, bà đảnh lễ Ðức Thế Tôn xin phép
đi về, cô tớ gái đi về theo, để quên lại tấm choàng mahālatā tại giảng đường.
Sau khi tất cả mọi người đi về hết, Ngài Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy tấm choàng
của bà Visākhā để quên lại, bạch Ðức Thế Tôn rằng:
– Kính bạch Ðức Thế Tôn, bà Visākhā đã về, để quên tấm choàng lại. Bạch Ngài.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda con nên để một nơi hợp lẽ.
Bà Visākhā đi thăm viếng Tỳ khưu bệnh, Tỳ khưu trẻ, Sa di.... Bà bảo đứa tớ gái
mang tấm choàng trở về. Cô tớ gái đã để quên tấm choàng lại trong giảng đường
nên thưa:
– Thưa bà chủ, con đã để quên tấm choàng.
Bà Visākhā dạy rằng:
– Này con, con đi đến chùa lấy tấm choàng đem về, nhưng nếu Ngài Ðại Ðức Ānanda
đã đem tấm choàng cất, thì con không nên lấy lại, ta xin dâng Ngài Ānanda tấm
choàng ấy, nghe con!
Ngài Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy cô tớ gái liền hỏi rằng:
– Này con, con đến đây để làm gì?
– Bạch Ngài Ðại Ðức, con để quên tấm choàng của bà chủ, nên trở lại đây để lấy.
– Cô tớ gái thưa.
– Này con, bần tăng đã đem treo ở chỗ kia, con hãy đến lấy đem về.
– Kính bạch Ngài Ðại Ðức, bà chủ con dặn rằng: nếu Ngài Ðại Ðức đã đụng chạm vào
tấm choàng ấy rồi, thì bà xin dâng Ngài tấm choàng ấy.
Cô tớ gái trở về, không mang theo tấm choàng, thưa lại với bà chủ sự việc trên.
Bà Visākhā dạy cô tớ gái rằng:
– Này con, tấm choàng ấy Ngài Ðại Ðức đã đụng chạm, ta đã dâng đến Ngài rồi, như
vậy, Ngài phải giữ gìn nó là một điều vất vả. Vì vậy, con hãy đến đem tấm
choàng ấy về đây bán nó, để sắm những vật dụng cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ
khưu Tăng.
Nghe theo lời dạy của bà Visākhā, cô tớ gái đến chùa đem tấm choàng ấy về trao
lại cho bà.
Bà Visākhā đem bán tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý với giá 90
triệu 100 ngàn đồng vàng. Với giá ấy, không có một nhà phú hộ nào có khả năng
mua nổi tấm choàng ấy. Cuối cùng, chính bà Visākhā mua lại nó với giá 90 triệu
100 ngàn đồng vàng, bà đến bạch Ðức Thế Tôn rằng:
– Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài Ðại Ðức Ānanda dùng tay đụng tấm choàng của con,
để cất giữ, nên con không dám lấy lại; con xin xả tấm choàng ấy bằng cách bán
nó, để sắm những vật dụng hợp pháp cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngoài con ra, không có một ai mua nổi với giá 90 triệu
100 ngàn đồng vàng. Vậy chính con mua lại tấm choàng ấy với giá đó. Bạch Ngài.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, trong bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc
trị bệnh, thứ nào cần thiết nhất? Bạch Ngài.
Ðức Thế Tôn dạy:
– Này Visākhā con! Vậy con nên xây cất một ngôi chùa gần phía Ðông cửa thành
Sāvatthī, để dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Vô cùng hoan hỉ, vâng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn, bà mua đất giá 90 triệu đồng
vàng, cho xây cất ngôi chùa "Pubbārāma". Dưới sự chỉ dẫn của Ngài Ðại Ðức
Mahāmogallāna, công trình xây dựng suốt 9 tháng mới hoàn thành chi phí thêm 90
triệu đồng vàng; và tổ chức lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ
phướng có Ðức Phật chủ trì, rồi làm phước bố thí kéo dài suốt 4 tháng, chi phí
thêm 90 triệu nữa.
Như vậy, bà đại thí chủ Visākhā Migāramātā đã hiến dâng tổng số tiền 270 triệu
làm phước bố thí: mua đất, xây cất ngôi chùa Pubbārāma và làm lễ khánh thành.
Tại tư thất của bà Visākhā Migāramātā cũng như tư thất của phú hộ Anāthapiṇṇika,
hằng ngày buổi sáng dâng cúng cháo đến chư Tỳ khưu, buổi trưa dâng vật thực đến
chư Tỳ khưu, buổi chiều bà đem nước trái cây, thuốc trị bệnh đến dâng cúng đến
chư Tỳ khưu bị bệnh v.v....
Ðức Phật tán dương bà là người cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh bố
thí trong hàng cận sự nữ đệ tử của Ngài như sau:
Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ dāyikānaṃ yadidaṃ Visākhā
Migāramātā.
Này chư Tỳ khưu, trong hàng nữ Thanh Văn cận sự nữ của Như Lai, Visākhā
Migāramātā là cận sự nữ thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí.
Bà Visākhā có tuổi thọ sống lâu 120 tuổi, cuộc đời của bà từ thuở ấu niên, trung
niên cho đến lão niên đều hưởng sự an lạc, sống trong cảnh giàu sang phú quý;
đó là quả của mọi phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Cho nên, trong suốt
cuộc đời của bà không phải gặp cảnh khổ cực thiếu thốn về vật chất. Bà có nhiều
tài sản của cải, lại càng hoan hỉ tạo nhiều phước thiện bố thí cho đến ngày
cuối cùng cuộc đời của bà. Sau khi bà từ giả cõi người, do năng lực thiện
nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nữ trong cõi Hoá lạc thiên, cõi trời dục giới
thứ 5, trở thành chánh cung hoàng hậu của đức vua trời Sunimmita, hưởng sự an
lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 80.000 năm (so với cõi người 2.304
triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm nơi cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
Bà là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự
an lạc tuần tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc
cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn trong cõi này. Do đó, khi tái sanh làm
thiên nữ cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục
giới, thiên nữ Visākhā tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới,
cho quả tái sanh làm phạm thiên (không còn nữ tính) cõi trời sắc giới
Phạm chúng thiên; tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc
giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam
thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp
tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo –
Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Ðạo – Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh
Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tinh cư thiên có 5 tầng theo tuần
tự cho đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc
giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt
tử sanh luân hồi trong tam giới.
Tích đức vua Asoka
Sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, Phật lịch 218, đức vua Asoka là một đấng
minh quân trị vì cõi Nam thiện bộ châu, có nhiều oai lực đặc biệt như thần
thông, Ðức Vua có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.
Một hôm, đức vua Asoka nhìn thấy Ðại Ðức Sa di Nirodha mới lên bảy tuổi, là bậc
Thánh A-ra-hán đang đi khất thực, Ðức Vua phát sanh đức tin đặc biệt nơi vị Ðại
Ðức Sa di Nirodha (Ðại Ðức Nirodha kiếp trước đã từng là anh của Ðức Vua).
Ðức Vua truyền lệnh các quan thỉnh mời Ðại Ðức Sa di Nirodha vào cung điện,
thỉnh ngoài trên ngai vàng cao quý, tự tay Ðức Vua để bát bằng những món vật
thực của Ðức Vua dùng hằng ngày. Khi vị Ðại Ðức Sa di thọ thực xong, Ðức Vua
bèn thỉnh Ngài thuyết pháp.
Vị Ðại Ðức Sa di Nirodha thuyết dạy bài kệ trong Pháp cú:
"Appamādo amatapadaṃ,
Pamādo maccuno padaṃ...".
"Không dể duôi, có chánh niệm,
là đường bất tử Niết Bàn,
Dể duôi là con đường tử...".
Ðức vua Asoka nghe pháp xong, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Ðức Phật,
Ðức Pháp, Ðức Tăng gấp bội.
Hằng ngày Ðức Vua cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu Tăng gồm có 600.000 vị tại
cung điện của Ðức Vua, bởi do đức tin trong sạch nơi vị Ðại Ðức Sa di Nirodha.
Một hôm Ðức Vua dự lễ bố thí tứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng 600.000 vị, Ðức
Vua bèn bạch chư Tỳ khưu Tăng rằng:
- Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, chánh pháp mà Ðức Phật thuyết giảng có bao nhiêu
pháp môn? Bạch quý Ngài.
Chư Ðại Ðức thưa:
- Thưa Ðại Vương! Chánh pháp mà Ðức Phật thuyết giảng có 84.000 pháp môn.
Ðức Vua phát sanh đức tin trong sạch nơi 84.000 pháp môn, nên Ðức Vua truyền
lệnh cho các quan ở khắp mọi nơi trong nước rằng:
- Trẫm muốn cúng dường mỗi pháp môn bằng một ngôi chùa và một bảo tháp, vậy Trẫm
muốn xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp trên toàn cõi Nam Thiện Bộ
Châu, các khanh hãy đến mỗi tỉnh xây cất một ngôi chùa để cúng dường đến chư Tỳ
khưu Tăng và ngôi bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Ðức Phật.
Ðức vua Asoka xuất ra số tiền gồm có 960 triệu kahāpana để lo xây cất 84.000
ngôi chùa và 84.000 bảo tháp. Ngôi chùa trung tâm tại thủ đô đặt tên Asokārāma.
Việc xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp suốt 3 năm mới hoàn thành.
Các quan ở mỗi tỉnh đến chầu Ðức Vua cùng một ngày, tâu lên Ðức Vua rõ, những
ngôi chùa và những ngôi bảo tháp đã hoàn thành rồi.
Ðức Vua truyền chiếu chỉ trong toàn cõi Nam thiện bộ châu biết rằng: "còn 7 ngày
nữa sẽ làm đại lễ khánh thành những ngôi chùa và những ngôi bảo tháp ở từng
nơi, tất cả mọi thần dân trong nước đều thọ trì bát giới, sửa soạn làm đại lễ
khánh thành tất cả các ngôi chùa và ngôi bảo tháp, để cúng dường đến chư Tỳ
khưu Tăng từ kinh thành đến các tỉnh thành".
Ngày đại lễ khánh thành chùa và bảo tháp, trong kinh thành cũng như các tỉnh
thành trang hoàng đẹp đẽ như cõi trời, Ðức Vua cùng các quan cũng như dân chúng
trang điểm đẹp đẽ trang nghiêm, đi dự đại lễ khánh thành chùa và tháp bảo.
Ðức Vua ngự đến ngôi chùa Asokārāma ở trung tâm chính tại kinh đô, kính thỉnh
chư Tỳ khưu Tăng toàn cõi Nam thiện bộ châu đến dự đại lễ khánh thành và thọ
nhận 84.000 ngôi chùa cùng bảo tháp ở mỗi nơi, có khoảng 800 triệu vị Tỳ khưu
Tăng và 9.600.000 vị Tỳ khưu ni Tăng. Trong số đó có 100.000 bậc Thánh
A-ra-hán.
Chư bậc Thánh A-ra-hán suy tư rằng: "Nếu đức vua Asoka được nhìn thấy rõ việc đại
bố thí 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp, mà Ðức Vua đã truyền lệnh xây cất,
nay làm lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng, sẽ làm cho Ðức Vua vô
cùng hoan hỉ, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Tam bảo".
Khi ấy, một vị Thánh A-ra-hán liền hóa phép thần thông "Mở thế gian"
(Lokavivaraṇa), Ðức Vua nhìn thấy mọi nơi không có gì che khuất cả. Dầu
Ðức Vua đang đứng tại ngôi chùa Asokārāma trung tâm, mà có thể nhìn thấy rõ bốn
hướng toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, thấy rõ 84.000 ngôi chùa và 84.000 ngôi bảo
tháp tôn thờ Xá Lợi Ðức Phật.
Thật vậy, đức vua Asoka vô cùng hoan hỉ hơn bao giờ hết, Ðức Vua suy tư rằng: sự
việc đại bố thí như thế này, không biết đã có ai từng làm chưa?
Vì vậy Ðức Vua bèn bạch hỏi chư Ðại Ðức Tăng:
- Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, trong giáo pháp Ðức Thế Tôn của chúng ta, có thí
chủ nào làm phước đại bố thí như thế này không?
Chư Ðại Ðức Tăng kính thỉnh Ðại Ðức Moggali-puttatissatthera trả lời câu hỏi của
Ðức Vua.
Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera trả lời rằng:
- Thưa Ðại Vương, trong Phật giáo, việc đại bố thí của Ðại Vương như thế này,
dầu khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền cho đến nay, chưa có một ai làm được như vậy.
Chỉ có Ðại Vương là đại thí chủ làm lễ đại bố thí lớn lao nhất từ trước cho đến
nay mà thôi.
Ðức Vua lắng nghe câu trả lời của Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera rồi phát
sanh hỉ lạc chưa từng có, rồi suy tư rằng: "Từ trước cho đến nay, chưa có thí
chủ nào làm phước đại bố thí như ta, ta là một đại thí chủ bố thí 4 thứ vật
dụng lớn lao như thế này, chắc có lẽ ta là thân quyến kế thừa Phật giáo (Dāyādo
sāsanassa) có phải không?".
Do đó, Ðức Vua bèn bạch hỏi Ðại Ðức Moggali-puttatissatthera rằng:
– Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con đã làm đại bố thí bốn thứ vật dụng lớn lao như thế
này, vậy, con có phải là "Thân quyến kế thừa của Phật giáo" hay
không?
Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera quán xét về ba la mật của thái tử Mahinda
và Công chúa Saṃghamittā con của Ðức Vua như thế nào. Ngài biết rõ Thái tử và
Công chúa xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giúp cho Phật giáo phát
triển tốt đẹp sau này. Cho nên Ngài đáp rằng:
– Thưa Ðại vương, người trở thành thân quyến kế thừa Phật giáo không
phải do nhân đại bố thí. Dầu người đại thí chủ bố thí bốn thứ vật dụng nhiều
đến bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ gọi là: paccayadāyaka: đại thí chủ bố thí
4 thứ vật dụng, hoặc gọi là: upaṭṭhāka: người hộ độ mà thôi....
Thưa Ðại vương, sự thật, người nào dầu bố thí bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu
Tăng chất chồng từ mặt đất cao đến cõi trời, người ấy không thể gọi là thân quyến
kế thừa của Phật giáo.
Lắng nghe lời dạy của Ngài Ðại Ðức Moggali-puttatissatthera như vậy, nên đức vua
Asoka cống hiến vị hoàng thái tử Mahinda yêu quý nhất, cho phép xuất gia trở
thành Tỳ khưu, thay vì truyền ngôi báu, và công chúa Sanghamitta xuất gia trở
thành Tỳ khưu ni trong Phật giáo.
Ðức vua Asoka không chỉ là một đại thí chủ chưa từng có từ trước
cho đến nay, mà còn là một thân quyến kế thừa của Phật giáo, bởi
vì Ðức vua đã cống hiến, cho phép 2 người con xuất gia trong Phật giáo, Người
có công đức lớn gởi các phái đoàn Ðại Ðức Tăng sang truyền bá Phật giáo ở đảo
quốc Srilankā và vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thái Lan,
Lào, Campuchia và Việt Nam.
Trên đây là những nhân vật đại thí chủ xuất sắc nhất về phước hạnh bố thí trong
thời kỳ Ðức Phật còn hiện tiền, và sau thời kỳ Ðức Phật đã tịch diệt Niết Bàn.
Tiếp theo