[Thư số 1]
Ngày ........ tháng ........ năm
........
Con
thương mến
Thầy mới là người đáng trách. Từ lâu Thầy rất ít có dịp để chăm sóc đến đời sống tinh thần của con. Tuy nhiên, Thầy luôn
luôn tin rằng con, một phật tử đã trưởng thành, không bao giờ có thể bị ngã
gục. Thầy cũng tin rằng tình thương mà Thầy dành cho con đủ để có thể nhắc nhở
và an ủi con giữa những cơn sóng gió của cuộc đời, và lòng kính tín của con đối
với Tam Bảo sẽ giúp con an nhiên vượt qua mọi hiểm nguy, gian khó.
Con biết không, Thầy nói điều này con đừng buồn, khi đọc thư con Thầy vô cùng xúc động, nhưng Thầy đã cười, không phải
cười chế nhạo con đâu, mà cười vì thương con, thông cảm với con và vui mừng cho
con. Một nụ cười khó lắm mới cầm được nước mắt. Thầy vui mừng vì con đã thấy.
Thật ra, con có ngã gục đâu, trái lại con đang vươn lên đó chứ ! Con cũng
đâu có làm mất thể diện của Thầy như con đã nghĩ, chính con đang xứng đáng là
một Phật tử trưởng thành trên đường Đạo. Con không nhận ra điều đó hay
sao?
Con thương mến,
Đối với tình thương của một vị Thầy, khi thấy đệ tử hạnh phúc sẽ không vì hạnh phúc ấy mà vui, khi thấy đệ tử khổ đau sẽ
không vì khổ đau ấy mà buồn, vì có sá gì hạnh phúc khổ đau giữa trần gian. Chỉ
có sự giác ngộ của người đệ tử mới làm cho Thầy vui sướng mà thôi.
Giác ngộ nghĩa là thấy rõ, càng ngày càng rõ bản chất như thật của sự sống. Sống và nhận thức được sự buốt đau
tột cùng của sự sống mới có thể giải thoát và an nhiên.
Khi con gặp những người có vẻ hạnh phúc vui tươi, như đang hãnh diện với những địa vị, giàu sang của mình, con đừng tự
ti mặc cảm mà hãy thương họ ! Họ mới là kẻ đang bị chìm đắm, vì chìm đắm là
thỏa mãn với hạnh phúc mà không tự biết mình đang bị đắm chìm.
Còn con, con đã giáp mặt với khổ đau, đã thấm thía với tủi nhục, nhờ vậy con đã tận mắt nhìn nó và thấy rõ mặt mũi nó ra
sao, và nhờ vậy con mới phát hiện được chân tướng ẩn núp đàng sau hạnh phúc và
đau khổ. Như thế con đang bước những bước chính xác trên đường giác ngộ, đang
đối diện với bộ mặt thật của cuộc đời mà Đức Phật đã từng khai thị trong Bốn
Sự Thật Vi Diệu. Đừng lùi bước, bên cạnh con còn có tình thương
yêu và niềm cảm thông sâu xa của Thầy.
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẫn tránh, cũng
đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa. Nếu con mong ước một hạnh phúc, một
sự cải thiện nào, đó mới chính là kẻ thù nguy hiểm. Hãy trả hạnh phúc lại cho
hạnh phúc giả tạm của cuộc đời, hãy trả khổ đau lại cho cuộc đời ngập tràn đau
khổ. Còn chúng ta, những người con của Đấng Giác Ngộ, phải giác ngộ,
phải giải thoát, không bám víu vào một cái gì tốt đẹp hơn trong cuộc đời. Hạnh
phúc trần gian mới là vực thẳm bi đát khôn cùng, vì nó chỉ là cái ảo ảnh trước
mắt của những kẻ lạc đường trong sa mạc. Thương chúng sinh Đức Phật không ban
cho họ thứ hạnh phúc trần gian ấy, vì Ngài biết rõ rằng chỉ có an ổn thanh tịnh
mới là nguồn chân phúc ngọt ngào vi diệu.
Con hãy chấp nhận tất cả những gì đến với mình từ cuộc đời, từ sự sống hay từ nỗi chết. Không cầu mong gì cả, không sợ
hãi gì cả, con hãy thản nhiên đi vào cuộc đời. Hãy lặng nhìn và lắng nghe đau
khổ. Hãy kham nhẫn và chịu đựng kiên trì với nó. Và hãy sẵn sàng đón nhận hạnh
phúc hay khổ đau của cuộc đời như người đánh vợt tiếp nhận những quả banh bất
ngờ của đối thủ. Vì con ơi, không có con đường giác ngộ nào không hiểm nguy,
gian khó, không có sự giải thoát nào không đi qua cay đắng, chông gai. Đừng sợ
cuộc hành trình đơn thân độc mã. Con không đi một mình đâu, bên cạnh con còn có
Thầy, Sư thúc và các bạn bè đồng đạo. Nhưng hãy nhớ con phải đi trong niềm cô
đơn thầm lặng của chính mình.
Con thương mến, thực ra đau khổ, tủi nhục không phải là kẻ thù của chúng ta, mà chính những tâm niệm xấu xa tăm
tối núp lén dưới nhiều hình thức khác nhau bên trong chúng ta để dựng lên muôn
vàn bộ mặt khác nhau của giả ngã mới là kẻ thù vô cùng nguy hiểm. Vì vậy hãy
thận trọng, tỉnh thức, đừng để bị kẻ thù lừa bịp một cách dễ dàng.
Khi ngồi dưới cội cây Bồ Đề, chính nhờ phát hiện ra mặt thật của những kẻ thù mà Bồ Tát trở nên thanh tịnh. Chính
vào giờ phút giác ngộ ấy, Ngài đã đối diện với tất cả kẻ thù bên trong đang ồ
ạt tấn công theo chiến thuật biển người. Nhờ thế, Ngài nhận diện tất cả những
bộ mặt hư ngụy đầy nguy hiểm của chúng. Ngài chỉ vào mặt chúng: “Hỡi những kẻ
thù, các ngươi chính là tham muốn, bất mãn, khao khát, ái dục, hôn trầm thụy
miên, sợ hãi, hoài nghi, phỉ báng, cố chấp, lợi lộc, khen tặng, vinh dự, địa
vị, tự tán hủy tha ... Từ bao nhiêu kiếp rồi ta đã tìm kiếm các ngươi, nhưng
các ngươi cứ núp lén sau bình phong cái ngã và không chịu xuất đầu lộ diện, nay
thì các ngươi tự dẫn xác đến đây để ta thấy rõ bộ mặt hư ngụy của các ngươi, từ
đây các ngươi không thể lén lút dưới bất cứ mặt nạ nào để đánh lừa ta được
nữa”.
Giác ngộ là như thế, là thấy rõ mặt thật của những kẻ thù mà xưa nay con xem là bạn hay thậm chí còn xem là chính mình.
Nay con đã thấy mặt mũi của những kẻ thù trong lòng con, đó là một bước tiến vĩ
đại trên đường giác ngộ.
Hiểu được một cách thâm sâu tất cả ý nghĩa khổ đau, hiểu được đâu là con đường giác ngộ, con mới thực sự hiểu được thế
nào là tình thương yêu. Con nói con thương yêu những người thân thuộc như chính
mình thì trước hết phải biết yêu thương chính mình. Yêu thương chính mình thì
phải biết quên nó đi để bước vào con đường đầy gian nguy hiểm trở, để thành tựu
sự giác ngộ cuối cùng. Như thế khi yêu thương người thân thuộc sao con lại ao
ước cho họ được những hạnh phúc thế gian? Yêu thương họ con hãy tập có nụ cười
khi thấy họ đang đối đầu với đau khổ, vì chỉ ở đó họ mới thấy ra đường vào giải
thoát. Nhất định sự giải thoát mới là hạnh phúc cuối cùng. Nhưng giải thoát chỉ
là hệ quả của giác ngộ, mà muốn giác ngộ thì phải thấy ra đau khổ, và nguyên
nhân sâu xa của nó.
Con hãy tập yêu thương chính mình và mọi người với tình thương đau buốt ấy rồi con mới hiểu được thế nào là lòng từ bi
vô lượng của Chư Phật. Phải dũng cảm lên con mới có được tình thương như thế.
Thiếu dũng và trí tình thương chỉ là phản ánh của lòng ích kỷ, là khóc than bi
lụy, là luyến ái buộc ràng. Với tình thương đầy hệ lụy như thế ta chỉ tự ràng
buộc chính mình và tha nhân vào trong vòng lao lung đau khổ. Chẳng khác nào một
người yêu chim bắt nó nhốt trong cái lồng vàng son của hắn. Tình thương như thế
đã trở thành tù ngục, ở đâu có ngục tù, ở đó tự do ngộp thở. Thiếu tự do và
sáng tạo thì cánh cửa giác ngộ đã khóa chặt mất rồi. Con ơi, huống nữa là tình
thương đầy toan tính lợi dụng và lừa lọc thì chỉ đưa con người rơi sâu vào hố
thẳm bùn nhơ, phải không con ?
Trở lại với sự thật xót đau của cuộc đời, ở đó sẽ là môi trường thích hợp cho con phát triển tình thương, một tình
thương vô ngại đủ để hỗ trợ cho hành trình giác ngộ giải thoát.
Cuối cùng, Thầy chép cho con một đoạn trong “ Luận Bảo Vương Tam Muội ”
để giúp con can đảm tiến lên trên đường tu tập.
“ Đức Phật thiết lập chánh pháp, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai góc làm giải thoát, lấy ma
quân làm đạo bạn, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp
đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân làm đôi dép bỏ, lấy xả
lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên ở trong chướng ngại mà
vượt qua tất cả”.
“ Đức Thế Tôn được giác ngộ chính trong mọi sự chướng ngại, Angulimàla hành hung, Devàdatta khuấy phá mà Đức Phật giáo hóa
cho thành đạo tất cả. Như vậy há không phải sự tác nghịch là sự tác thành mà sự
khuấy phá là sự giúp đỡ cho ta đó sao?”.
Con
thương mến,
Con hãy hành động như những người Phật tử đã trưởng thành, không tự ti mặc cảm, không rụt rè yếu đuối, và nếu cần con có
quyền hãnh diện mình là người con Phật. Nói thế không có nghĩa là tự tôn mà chỉ
để tự tin ở chính mình trên hành trình giác ngộ. Thầy cầu chúc cho con có thừa
dũng mãnh để vượt qua mọi gian nguy với những bước chân thênh thang vô ngại
giữa không thời gian biến ảo vô thường.
“Hãy lắng nghe bước chân
Bước chân qua thời gian
Thời gian vô sở trụ
Chân bước hề thênh thang”
Thầy.
|
[Thư số 2]
Ngày ........ tháng ........ năm ........
Pháp đệ thương mến,
Kể từ khi pháp nạn, hoàn cảnh đưa đẩy chúng mình phải rời am tranh bên đồi mây vắng, chia tay nhau mỗi người một ngã,
như cánh nhạn lạc đàn từ giã quê hương đi tìm xứ lạ.
Hình ảnh ấy đã làm sống lại kỷ niệm ngày xưa, chắc đệ còn nhớ, một buổi chiều thu thật buồn và đẹp, huynh đệ mình đứng
tựa hiên tây, ngắm cảnh hoàng hôn đang buông theo dòng nước lung linh xuôi về
biển cả... Bỗng trong không khí tịch liêu đó, một con nhạn lạc đàn vươn cánh
bay cao, vẽ ngang nền trời lam một làn khói bạc. Và vô tình, từ đỉnh Bạch Vân
một cụm mây cô đơn len khỏi đồi cao bay ra đồng nội. Lúc đó huynh chợt nhớ đến
câu thơ:
“Lạc hà cô vụ tề phi
Thu thủy trường thiên nhất sắc”
(Cò đơn ráng lẻ bay ngang
Trời thu cùng với trường giang một màu)
mà
huynh đã ngâm cho đệ nghe với một giọng thì thầm xa vắng. Lời thơ rì rào len
trong từng đầu cây, ngọn cỏ, ve vuốt đám rêu xanh trên bờ vách đá, lúc ríu rít
líu lo cùng chim hót gọi đàn, khi biệt tích vô thanh theo gió chiều thoang
thoảng, rồi bỗng ầm ĩ thét vang cuối ghềnh sóng vỗ, cho đến khi tan dần vào hư
không vô tận của buổi chiều tà. Chỉ còn nghe ngọn lá vàng rơi lặng lẽ trên lối
vào am vắng. Bất chợt ngày tháng ngừng trôi, không gian bất động.
Nhiên! Khứ lai hề
Thiên
thu giả mộng!
Pháp đệ thương mến,
Bây giờ những kỷ niệm êm đềm xa xưa đã trôi theo dòng suối... và xô đẩy chúng ta vào giữa dòng định mệnh của cuộc đời
chìm nổi. Bỗng đâu chạnh thấy mình đã mang kiếp nhạn lạc, mây trôi tự bao giờ,
để cho:
“Cô
đơn theo dõi mỏi thân này
Bơ
vơ hoa nắng cùng mây trắng
Ủ
trọn hồn ta giấc ngủ say”
(quên tác giả...?)
Nhưng trong giấc ngủ cô đơn ấy huynh đã tìm ra được ý nghĩa nhiệm mầu của sự ra đi và trở lại.
Đệ có biết chăng làm kiếp mây trôi chính là đánh mất quê hương, đi vào viễn mộng, để rồi bị cuốn trôi trong bầu trời
huyễn hóa của cõi phù sinh.
Nhưng làm kiếp mây trôi cũng có nghĩa là giã từ thế giới mây mưa, cô thân vạn lý trên đường tìm về tự tánh, rồi giải thể
chính mình trong biển huyền không, chân như, vắng lặng.
“Cố
thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu
Thử
lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh
Đồng
vị chi huyền, huyền chi hựu huyền
Chúng
diệu chi môn”
(Lão Tử Đạo Đức Kinh)
Ra đi hay trở lại tất cả chỉ có bây nhiêu, trở lại hay ra đi muôn đời là ảo mộng. Cho nên “Niết-bàn
sinh tử thị không hoa” là vậy.
Nhưng dù với ý nghĩa nào đi nữa, đã dấn thân làm kiếp phù vân thì phải sẵn sàng chịu đựng vùi dập giữa muôn ngàn giông
tố bão bùng, có mong chi tìm được giây phút trời yên biển lặng, phải không đệ?
Kiếp phiêu du của chúng ta trong cuộc đời đau khổ này không thể nào khác được.
Chắc đệ còn nhớ có lần bác Đạo Tâm ghé qua thảo am thăm chúng ta trong một đêm trăng bên bờ suối đá, bác đã tâm sự:
Đạo
sĩ chờ ta chán hải hồ
Ta
chờ đạo sĩ lãng hư vô
Và mấy tháng gần đây huynh có gặp lại con người nghệ sĩ ấy trong một trường hợp tình cờ. Bác kéo huynh vào một con đường
vắng và lại thì thầm tâm sự:
Sống trong cái chết bao lần khóc
Gẫm lại cơn mê mấy trận cười!
Giọng nói nửa như trầm buồn nửa như hài hước của bác chứng tỏ bác đã gặt hái ít nhiều khổ đau trong cuộc đời hồ
hải. Rồi bác xiết chặt tay huynh, từ giã, không quên ngoái lại: “Xin cứ đợi
chờ” với một nụ cười tự tin đượm mùi chua chát của một con người từng ra vào
sóng gió. Thế là bác lại tiếp tục ra đi theo tiếng gọi hải hồ muôn đời của bác.
Huynh đứng trông theo bước chân của bác xa dần mà tự nghĩ không biết bác đang đi vào viễn mộng hay đang tìm lại đường
về.
Bỗng huynh nhớ tới bài thơ của Đoàn Khuê và ngâm khẽ:
“Bể
khổ mênh mông sóng ngập trời
Khách
trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió
Gẫm
lại cùng trong bể thảm thôi”.
Và huynh cũng rẽ vào một con đường khác, trong lòng còn nghĩ vẩn vơ đến những kỷ niệm năm xưa dưới mái thiền am lợp cỏ
khô trên đồi mây hoang vắng.
Pháp
đệ thương mến,
Có bao giờ đệ chợt thấy mình hiện diện một cách phi lý trên cuộc đời mộng huyễn này không? Có bao giờ đệ tự hỏi mình là
ai mà phải chịu nổi trôi làm thân “bọt trong cửa bể, bèo ngoài bến mê”
không?
Một thi sĩ Trung Hoa đã có lần bỗng thấy mình hiện diện một cách trơ trẽn trên cuộc đời và ông nhất định đòi trở về...
phi hữu:
Tích ngã vị sinh thời
Minh minh vô sở tri
Thiên không hốt sinh ngã
Sinh ngã phục hà vi ?
Vô y sử ngã hàn
Vô phạn sử ngã cơ
Hoàn nhĩ thiên sinh ngã
Hoàn ngã vị sinh thời !
Huynh xin tạm dịch:
Xưa khi mộng chửa vào đời
Thênh thang mờ mịt đất trời nào hay
Hốt hề hóa hiện thân này (1)
Không trung vô cớ hiển bày mà ra
Áo cơm làm kiếp người ta
Gót chân trần thế âu là cuộc chơi
Cái tôi hoàn lại đất trời
Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sinh.
Như thế có phải là nhà thơ họ Phạm đã ngao ngán mộng phiêu du hay không còn kham nổi cuộc đời khổ ải? Người nghệ sĩ sao
không tiếp tục dệt nốt vần thơ mà đã muốn trở về “minh minh vô sở tri” để an
thân trong cái “vị sinh thời” thiên không vô ảnh?
Đó có phải là con đường về chân không hay chỉ là bước trầm luân bên bờ phi hữu?
Cũng cùng một ý niệm trên, nhà thơ đất Ấn, Rabindranath Tagore lại có thái độ khác hẳn, ông hiên ngang gởi tối hậu thư
thách thức tuyên chiến với khổ đau và xông lên đối đầu với ma quỷ:
Không cần tránh gian nguy
Can trường ta chống đỡ
Khổ đau nào sá chi
Kiên trì ta chiến đấu
Cầu chi người giúp sức
Một mình ta xông pha
Dù bao người sa ngã
Ta vững một niềm tin
Ma vương dù phép lạ
Không cúi lạy van xin
Vì lòng ta đã quyết
Lìa xa nẻo vô minh
Và con đường xông pha hiên ngang dấn bước của ông có thể là :
Ra đi tức thị trở về
Biển phiền não đó Bồ Đề khác chi
(Triều Tâm Ảnh)
Nhưng không phải ai từ giã vườn địa đàng ra đi cũng đều có thể trở về dưới chân Thượng Đế. Vì “Quả thật ta nói cùng các
ngươi, nếu các ngươi không xây lại trở nên như con trẻ thì hẳn chẳng được vào
nước trời đâu” Tân ước Mathieu, 18) nên cũng có những kẻ ra đi, đi hẳn
vào hỏa ngục đời đời, khó quay đầu trở lại. Đó chính là:
“Người thức ngủ thấy đêm dài
Đường xa trĩu nặng đôi vai lữ hành
Si nhân chẳng thấy pháp lành
Luân hồi nào biết mối manh nẻo về”.
(Dhammapada 60)
Thế là có kẻ ra đi “quên hẳn đường về, tình ái si mê, tù trong lục đạo, trăm dây phiền não... nghiệp báo không rời”,
hoặc như Vũ Hoàng Chương đã nói:
“Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về”.
Như thế vẫn có kẻ ra đi, có người trở lại, Socrate đã từng lang thang trên vạn nẻo đường với đôi bàn tay trắng. Chàng
Rimbaud lại trở về sau khi đã “giã từ cõi mộng điêu linh”. Và Nietzsche cô đơn
đi vào sa mạc cuộc đời để tìm lại đứa “hài nhi chưa tắm sông nào”, may mắn gặp
Lão Tử được Lão gia trao cho Xích Tử anh trở về miệt mài ru con trong
cơn điên câm lặng.
Rồi
Huệ Năng, Bùi Giáng, Krishnamurti, Marx, Miller... biết đâu là lối về, biết đâu
là nẻo vọng.
Hữu lai nhi khứ
Hữu khứ lai hề
Hữu lai nhi lai
Hữu khứ khứ hề
Tri chi bất lai
Tri chi bất khứ
Nhiên ! Khứ lai hề
Thiên thu giả mộng!
Huynh
|
[Thư số 3]
Ngày ........ tháng ........ năm ........
Con,
Đã lâu không nhận được thư con, Thầy nghĩ là con đã trở lại bình thường. “Trở lại bình thường”, Thầy nói đây, không
phải theo nghĩa thông thường, mà là “bình thường tâm thị đạo”. Than ôi!
Chúng sinh ít ai có thể trở lại bình thường vì họ hoặc là đã quá tầm thường,
quá bất thường hay quá phi thường.
Người tầm thường là người bị cuộc sống cuốn trôi như một kẻ vong thân buông mình theo dòng sông nghiệp mệnh.
Người bất thường là người bị phong ba của cuộc đời quẳng lên bờ sự sống, nằm giãy chết chờ ngọn thủy triều lôi trở lại giòng
sông.
Còn người phi thường muốn với lên cao, bay bổng khỏi thực tại khổ đau của cuộc sống, muốn chắp cánh tung bay, vượt xa sự
thế, cho đến ngày kia cánh mỏi, sức mòn lại rơi trở về phong ba, nghiệp mệnh.
Chúng sanh thường là một trong ba hạng người trên, hoặc là cả ba cùng làm chủ họ, thế thì biết làm sao trở lại bình thường?
Con ạ, Thầy biết con đã từng là kẻ tầm thường, rồi có khi bất thường và bây lâu nay (từ khi gặp Đạo) con lại mang thêm mộng
ước phi thường.
Con tưởng có thể vùng vẫy ra khỏi quá khứ. Con tưởng có thể hướng đến một tương lai trên giải đất bình an. Và con băn khoăn
tự nghĩ “biết bao giờ mình mới được bình an” hoặc tỏ ra khẳng khái “ta nhất
định phải đạt được bình an”. Nhưng bằng cách ấy, con đã vô tình đánh mất cái
bình an thường tại, mà Thầy gọi là cái bình thường, cái đang là
hoặc cái đương như muôn thuở của chính mình. Con ơi, sao con lại cứ mãi
bỏ rơi cái bình an muôn thuở của con để đuổi bắt cái sẽ là hoặc
cái bình an lý tưởng xa xăm?
Một thiền sư đã nói :
Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lãnh thượng mạc tầm sơn
(Thân ở biển khơi thôi tìm nước
Ngày đi trên núi há tìm non.)
Cái bình thường là cái khổ đau, vô thường và vô ngã mà con luôn luôn ở trong đó. Chỉ vì con vọng cái phi thường - cái thường
lạc ngã tịnh, hay cái bình an xa xăm nào khác - nên con đã tự bỏ quên cái bình
thường thiên thu vô giá. Cũng như một người đãng trí cầm ngọn đèn đi tìm ngọn
đèn ấy, tìm mãi không gặp, mà thật ra ngọn đèn nằm sẵn trong tay chưa rời nửa
phút.
Trở lại bình thường không phải là có đi có lại mà con chỉ cần xả ly cái viễn vọng phi thường, chỉ cần buông tay
một lần dứt khoát, thế là xong. Nhưng buông tay để trở lại cái bình thường chứ
không phải buông xuôi theo cái tầm thường, nghĩa là làm sao con không bị
cuốn trôi trong dòng nghiệp mệnh.
Chắc con còn nhớ công án “con cá” mà Thầy cho con lúc trước. Tại sao cá không bị cuốn trôi theo dòng nước? Tại sao cá không
bị quăng bỏ lên bờ? Tại sao cá không biến thành rồng để bay bổng lên mây? Chỉ
vì cá biết bơi lội, bơi lội trong chính dòng nước bình thường muôn đời của nó.
Con tưởng người giác ngộ ra khỏi cái bình thường sao? Không, họ chỉ ra ngoài cái tầm thường, cái bất thường và cái phi
thường. Giác ngộ chỉ có nghĩa là trở lại bình thường, mà người ta thường
diễn tả thật kêu là “ngộ nhập tự tánh”. Một thiền sư đã xác nhận:
Người giác ngộ “bất muội nhân quả” chứ không phải “bất lạc nhân
quả”. Nhân quả biến dịch là cái bình thường, là cái “dữ ngã tịnh sinh”
(cùng ta sinh ra), là cái “dữ ngã vi nhất” (cùng ta là một).
Cho nên họ ở trong nhân quả mà không “muội” nhân quả, nghĩa là họ
sống ung dung trong dòng sông nhân quả ấy mà chẳng hề bị nhân quả cuốn trôi và
hẳn nhiên trong sự huyền đồng tuyệt đối đó họ đã là một với dòng sông - và vì
biết như thế (như thị giác), nên đã “ra khỏi nó”, ra khỏi sự cuốn trôi
(luân hồi) của dòng sông nghiệp mệnh. Đó cũng chính là ý nghĩa lời tuyên bố
siêu việt của Đức Phật: “Không dừng lại, không bước tới Như Lai thoát khỏi bộc
lưu”. Nếu con có dọc Kinh Kim Cang thì con nên hiểu chữ “thoát khỏi”
theo lối biện chứng này: “Thoát khỏi mà không thoát khỏi nên gọi là thoát khỏi”.
Nếu không thế thì thoát khỏi chỉ là cơn đại mộng của loài người. Đại mộng ấy đã chi phối hầu hết sinh hoạt của
họ, đã hóa hiện ảo thuật trong toàn bộ những thăng trầm, khủng hoảng, phân hóa,
chiến chinh... của con người mệnh danh là “linh ư vạn vật”!
Ôi tự do! Chính mi là ngục tù ràng buộc con người. Ôi giải đất bình an! Chính mi là bãi chiến trường bốc đầy khói lửa.
“Hãy tỉnh ngộ, hãy dừng chân!”. Tiếng thét sư tử vương ấy đã từng đánh thức Angulimàla giữa giấc chiêm bao của kẻ
mộng thấy phi thường. Không thể có tự do nào khác, không thể có hạnh phúc nào
hơn ngoài cái bình thường muôn thuở. Vậy chỉ còn một lối thoát duy nhất Thầy
xin mở cho con:
Tự do là ung dung trong ràng buộc
Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau
Vâng, đúng thế, vui buồn, được mất, hơn thua, xấu tốt... là bản chất của cái bình thường. Nếu con chỉ để một thoáng phân vân
lựa chọn là hỏng hết rồi! Nhưng vì sao người ta không kham nổi với cái bình
thường? Đức Phật trả lời: Chính vì vọng tưởng tham, sân, si.
Sống tầm thường là biểu hiện của si mê. Sống bất thường là biểu hiện của sân hận. Sống phi thường là biểu hiện của tham lam.
Và ở đâu có si, ở đó có tham sân. Ở đâu có sân, Ở đó có si tham. Ở đâu có tham,
ở đó có sân si. Tham, Sân, Si là những ảo ảnh biến hiện khó lường, đổi thay
không dứt. Chúng là trùng trùng duyên khởi trên cái trùng trùng duyên khởi, là
khổ đau chồng chất trên khổ đau, là tri kiến che mờ tri kiến. Bởi vậy, duyên
khởi, khổ đau, tri kiến đã bị xuyên tạc, đã mất bình thường. Từ đó con người
sống trong thế giới huyễn mộng của tầm thường, bất thường và phi thường, đó
chính là tiến trình vận hành của vô minh, ái dục, thập nhị nhân duyên, biến kế
sở chấp, nghiệp báo luân hồi.
Thoát khỏi tiến trình vô minh, ái dục vì thế không phải là để bay bổng vào thế giới siêu nhiên, huyễn mộng, mà chính là lột
bỏ tất cả mọi mặt nạ trá hình mang nhãn hiệu cái ta để dừng lại
hồn nhiên trong cái nguyên tính bình thường bản lai diện mục.
Thiền sư Vĩnh Gia đã từng nói:
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng niệm bất cầu chân
Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.
Tuyệt học vô vi chính là trở lại bình thường, là nhảy vào giữa dòng định mệnh không một chút sợ hãi, và lạ lùng thay ở đó
chúng ta gặp lại mặt mũi của mình trong pháp giới mông lung, đúng là “bất tranh
nhi thiện thắng” như Lão Tử đã dạy. Nhưng biết bao nhiêu người niệm
Phật Di đà, vọng cảnh Tây Phương. Những người phi thường ấy thật là khờ dại khi
bỏ cõi tịnh độ ta-bà đi tìm Tây Phương Cực Lạc mộng ảo xa xăm, vì không biết
rằng Di Đà là tự tánh, tịnh độ là bổn tâm.
Đức Phật dạy: “Tâm bình thế giới bình”, tâm bình hay tâm thanh tịnh là bình thường tâm -
“bình thường tâm thị đạo”.
Vậy tâm bình thường, thế giới bình thường, là Niết-bàn Tịnh độ chứ nào phải tìm kiếm đâu xa. Thế nên cổ đức đã từng nói:
Điểu ngữ, thiền minh giai đạo lý
Sương đầu, diệp lạc thị thiền-na
(Chim hót ve kêu đều đạo lý
Sương mai lá rụng thảy thiền-na ).
Tâm hồn của một người bình thường là thế, đạo vị và thi vị biết là bao!
Trong tâm thái hồn nhiên, chánh niệm và tỉnh giác, con người bình thường ấy có thể mỉm cười khi thấy:
Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh
Một đời sinh tử tánh thường như
Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở
Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.
Thầy ngừng bút, chúc con thường như trong cái như thường.
Thầy.
|
[Thư số 4]
Ngày ........tháng ........ năm ........
Các con thương mến,
Nhiều lần định viết thư cho các con nhưng Thầy lại bận một vài công việc nên cứ trì hoãn hoài. Đối với Thầy viết thư cũng
đạo vị, phải viết trong một lúc nào tâm hồn thanh thản, thời giờ rảnh rang. Bởi
“tướng tự tâm sinh” nên nếu tâm đang bận rộn, thời giờ eo hẹp, e rằng lời lẽ
cũng không chở được đạo, phải không các con?
Nay nhân ngày lễ lớn, Thầy ưu ái gửi đến các con một vài ý đạo.
Hôm về dự hội Huyền Không, Thầy dẫn quí sư lên thăm Huyền Không sơn thượng để xem rừng thiền này có thể phát triển lâu dài
cho tăng chúng tu tập được không, vì đó là nơi Thầy tình cờ khám phá được trong
một chuyến thăm dò thú vị.
Huyền Không sơn thượng là một số sơn động cheo leo trên đỉnh Bạch Vân nằm sâu trong rừng Nguyên Thủy, nơi xuất phát hai dòng
suối Thanh Tâm, Tịnh Thủy lượn khúc hai phía Đông, Tây của chùa Huyền Không
(sơn trung) và chảy ra biển Bắc hòa vào đại dương, như trở lại với thể tánh
ngàn đời. Sư Minh Đức lúc mới về Huyền Không có cảm đề hai câu thơ đầy đạo vị:
Tịnh Thủy nước reo mùi giác hạnh
Thanh Tâm lòng lắng vị trần say.
Ngược giòng suối Thanh Tâm đi lên, lên mãi... Ôi, giòng suối đá mới hùng vĩ làm sao! Càng lên cao, rừng, núi, biển, trời
càng cao rộng. Càng lên cao tâm hồn càng trải mở bao la như để hòa nhập vào
pháp giới đại đồng viên dung vô ngại.
Đây là hồ nước trong với những đàn cá tung tăng bơi lội hồn nhiên, đây là thác nước nhỏ đổ xuống từ một bờ đá cheo leo tạo
thành những âm thanh trầm hùng, hòa điệu trong bản hợp tấu của núi rừng huyền
diệu. Và kìa ! Bên một gốc đá dưới tàng cây cổ thụ, một thảm rêu li ti đã xanh
lại càng xanh mướt dưới những giọt sương mai còn đọng lung linh.
Lúc ấy, cao hứng Thầy có làm mấy giòng thơ mộc mạc:
Một chùm rêu xanh xanh
Nằm yên bên góc đá
Chừ xuân hay là hạ
Sương điểm giọt long lanh?
Đó phải chăng là một câu hỏi tò mò? Không, đó chỉ là một sự ngạc nhiên. Ngạc nhiên như tâm hồn của trẻ thơ trước sự mới lạ
của muôn loài vạn vật.
Các con ạ, chỉ một chùm rêu nằm khiêm nhường bên góc đá, nhưng nó mới kỳ diệu làm sao! Nó tô điểm cho cả một bức tranh vĩ
đại của núi rừng, trời biển và mây sương... Phải chăng nó đang im lặng lắng
nghe âm thanh vi diệu từ tiếng suối rì rào, từ tiếng hót líu lo của chim muông
và dã thú, từ tiếng lao xao của lau lách và ngàn cây...? Hay nó đang tấu khúc
vô thanh cùng với những “đá đen tròn to nhỏ đang cúi mặt tham thiền” (*).
Dù sao sự hiện diện của nó cũng vĩ đại như sự vĩ đại của cả đất trời. Các con
biết tại sao nó vĩ đại và toàn mỹ không? Thầy xin góp ý: vì nó chỉ là nó như nó
đang là kiếp rong rêu, bé bỏng khiêm nhường, vô sự, vô tư, vô cầu, vô ngại. Vô
ngại nên không cần biết bây giờ là xuân hay hạ, buồn hay vui, sinh hay tử. Bây
giờ là bây giờ với mấy giọt sương còn đọng trên đầu:
Không có ngày hôm qua
Không có ngày mai
Không có lý do để phiền muộn u sầu
Cũng không cần phải nói :
Tôi
nhớ lại chuyện này...
Hay
tôi khấn vái cầu xin chuyện kia...
Nghiệp báo, từ bi, vô thường,
Tất
cả chân lý trong đời sống
Đều
nằm trọn vẹn trong giây phút hiện tại này Hôm
qua chỉ là giấc mộng
Và
ngày mai ai biết sẽ ra sao !
Hãy
sống trong hiện tại !
(Live
Now, Ananda Pereira)
Sống trong hiện tại không phải là hiện sinh hư vô chủ nghĩa mà là một sự sống dạt dào sinh động, tích cực, yêu đời, yêu
người, yêu muôn loài vạn vật. Sống trong hiện tại với tâm hồn thanh khiết, vắng
lặng, hồn nhiên. Sống trong hiện tại với tâm tư cởi mở, viên dung vô trước.
Sống trong hiện tại như thế mới có thể giúp đời, giúp người, hy sinh, xả kỷ.
Sống trong hiện tại là quên mình đi để trả mình về vĩnh cửu. Sống trong hiện
tại là để cho sự sống tự nó vận hành, sống động và trôi chảy trong suối nguồn
luân lưu vô ngại của vạn pháp, là thể nhập đại đồng... Sống trong hiện tại là:
Sinh tử sự hề mạc tư mạc vấn
Kim cổ vị tằng hữu cá bất như
vì
sinh tử chính là sự sống ngàn đời vô sinh bất diệt! Nên trong sinh tử ấy nào
còn có không gian và thời gian. Chỉ có hiện tại, hiện tại không ngừng... Sống
trong hiện tại là sống hồn nhiên như trẻ thơ, như Sư thúc nói:
Ôi hài nhi, ôi ngạc nhiên!
Ngạc nhiên nghĩa là tiếp nhận mọi sự, mọi vật một cách mới mẻ không qua lăng kính của ngôn ngữ, tư dục và quan niệm.
Một đóa hoa tự nó là một sự sống độc đáo, vô cùng sinh động, mặc cho ta gọi nó là hoa hồng hay cúc, mặc cho ta đam mê hay
chán ghét, mặc cho ta gán cho nó cái đẹp dưới một quan niệm thẩm mỹ thế nào,
thì đóa hoa kia vẫn là một đóa hoa như nó đang là, hồn nhiên tự tại. Chính ngôn
ngữ, tình cảm và quan niệm của ta làm cho tâm tư ta thêm u ám, não phiền mà
thôi, phải không các con?
Tất cả âm thanh, sắc tướng v.v... đều ở trong dòng trôi chảy của sự sống, ta không thể nắm bắt sự biến dịch lại được, mà dù
cho có bắt nắm được chăng nữa thì cũng chỉ làm cho ta chán nản mà thôi. Nếu
ngày tháng ngừng trôi, dòng sông không chảy, hoa nở không tàn, và mọi vật đều
ngưng đọng trơ lỳ thì phải chăng đó là vĩnh cửu hay chỉ là khô chết.
Chính vì sự sống biến dịch nên tất cả đều luôn luôn đổi mới không ngừng. Và từ đó cái nhìn của ta phải là cái nhìn đầy ngạc
nhiên của một em bé chưa bao giờ biết gọi tên, chưa bao giờ yêu ghét, và chưa
bao giờ bước vào rừng quan niệm của lý trí vọng thức, để thấy cuộc đời tinh
nguyên trọn vẹn như chính bản lai diện mục của nó.
Chân lý quá cao sâu mầu nhiệm nhưng cũng thật dung dị bình thường, phải không các con?
Chúc các con một mùa Phật đản đầy đạo vị.
Thầy.
|
[Thư số
5]
Ngày ........ tháng ........ năm ........
Con
thương mến,
Thầy rất cảm động khi đọc thư con. Tiếc là Thầy ở xa con quá để có thể trong những trường hợp khó khăn như thế, chia sẻ
với con những nỗi lo âu, phiền muộn, băn khoăn và đau khổ. Dẫu sao Thầy vẫn yên
tâm là trong quyết định quan trọng như thế đối với vận mạng mình, con đã nghĩ
đến Thầy và nhất là nghĩ đến những lời Thầy dạy.
Trong giới hạn của ngôn ngữ và trong khuôn khổ của một bức thư dĩ nhiên không sao Thầy có thể chuyển đạt đến con trọn
vẹn những gì Thầy muốn nhắn nhủ để con có thể an tâm lên đường đi vào thế cuộc.
Như tâm trạng của người mẹ chuẩn bị hành trang cho đứa con trai duy nhất của
mình lên đường viễn xứ, dầu đã chuẩn bị vô cùng chu đáo vẫn chưa yên lòng khi
tiễn con đi. Và bây giờ khi con “xuống núi” Thầy cũng có một tâm trạng như thế.
Tình thương là vậy. Nhưng thật ra Thầy vẫn bình thản dù con quyết định thế nào.
Con có quyền làm theo ý muốn của con mà Thầy không hề can ngăn hay khuyến
khích, cũng không đưa ra một lời tiên đoán hay cầu nguyện nào cho con cả. Vì
sao vậy? Vì Thầy muốn con trưởng thành. Chính nghiệp mệnh sẽ giải bày
một cách minh bạch và sống động nhất những gì nó cần phải giải bày. Hãy lắng
nghe với niềm tin trọn vẹn. “Thượng Đế” sẽ nói với con những gì Ngài
muốn nơi con và sẽ trả lời con những gì con muốn ở Ngài. Nghĩa là Chân Lý,
Pháp, nghiệp mệnh hoặc nói cho dễ hiểu là đời sống luôn luôn tự thể hiện một
cách chân thực, con chỉ cần để tâm học hỏi là giác ngộ.
Bây giờ Thầy sẽ cố gắng một lần nữa trình bày sao cho con có thể lãnh hội những gì Thầy đã dạy hầu có thể cho con xuống
núi với một nụ cười. Thế là Thầy an lòng.
Thầy hiểu rất rõ tâm trạng con khi con viết: “Tâm con vô cùng dao động”, “rõ ràng là con không có sự tỉnh giác” hoặc
“... con vẫn lo âu, vẫn thất vọng, chán nản trước cái hiện tại và vẫn khổ
đau”... nghĩa là con muốn giải thoát ra khỏi những trạng thái ấy, những khổ đau
vật chất lẫn tinh thần ấy, cái hiện tại đầy thất vọng, đầy chán nản ấy, bằng
cách có một hành động tỉnh giác nào đó có thể xóa bỏ chúng đi phải
không?
Nhưng không phải thế đâu, con thương mến của Thầy, con đã hiểu sai chữ tỉnh giác mà Thầy đã dạy. Nếu có một thứ
tỉnh giác nào như con hiểu thế, Thầy e rằng nó chỉ là công cụ của ý
muốn trốn tránh thực tại mà thôi! Và trước hết tại sao con muốn giải
thoát? Phải chăng con muốn lẩn tránh cái hiện tại đầy chán nản khổ đau
để đạt được ở đâu đó một cái gì hạnh phúc hơn? Nhưng nói cho cùng quả thật
không ai có thể trốn tránh nó được cả, và cũng không bao giờ có được ở đâu đó
một hạnh phúc khác hơn. Đúng là:
Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh
Xu hướng chân như tổng thị tà.
Con ạ, giải thoát thật sự thì phải có trí tuệ, mà trí tuệ là thấy rõ thực tại đúng như nó đang là. Phật dạy rất rõ ràng:
Sabbe sankhàrà aniccà ti ... (Dh 277)
Sabbe sankhàrà ca dukkhà ti ... (Dh 278)
Sabbe Dhammà anattà ti
Yadà pannàya passati
Atha nibbindati dukkhe
Esa
maggo visuddhiyà (Dh 279)
(Tất
cả hành vô thường ...
Tất
cả hành là khổ ...
Tất
cả pháp vô ngã ...
Thấy
thế với trí tuệ
Liền
thoát ly đau khổ
Đó
là đường thanh tịnh)
Vậy làm thế nào con có thể hy vọng thoát khỏi khổ đau khi bản chất các hành là đau khổ? Khi ba cõi bất an y
như nhà lửa? Và khi con không thật sự giáp mặt với thực tại khổ
đau bằng cái nhìn trí tuệ, mà chỉ lo toan lẩn tránh hay tìm cầu một hạnh phúc
nào khác trên thế gian? Nói thế không phải là đành chấp nhận đau khổ một cách
bi quan, hay đầu hàng khổ lụy. Vì thực ra vẫn có giải thoát, nhưng không phải
là giải thoát về đâu mà là giải thoát chính mình ra khỏi vô minh ái dục để có
thể thong dong tự tại giữa cuộc đời đau khổ này. Và vẫn có hạnh phúc, nhưng
không phải thứ hạnh phúc loại trừ đau khổ mà là hạnh phúc dung nhiếp khổ đau,
một “paramam sukham” như Phật đã dạy.
Phật dạy: “Santi paramam sukham” (an tịnh (Niết-bàn) là hạnh phúc tuyệt đối). Cũng như ở trên Ngài dạy: “Maggo
visuddhi...” là để chỉ một sự im lặng tuyệt đối trước tất cả mọi nỗi
khổ đau trong cuộc đời, sự im lặng dung thông được tất cả mọi trạng thái mâu
thuẫn hay hỗ tương của đời sống, chứ không phải là một trạng thái bất động của
cơn thiền định xuất thần như biết bao nhiêu người ngộ nhận.
Im lặng tuyệt đối cũng là Bát-nhã (Pannà), trí tuệ, viên chiếu, viên minh, tánh giác v.v... qua đó các pháp tự thể hiện
một cách chơn thật, sống động. Và tuy rằng tướng của các hành, các pháp là vô
thường, khổ, vô ngã nhưng im lặng tuyệt đối của trí tuệ vẫn viên dung vô
ngại. đó chính là hạnh phúc, là giải thoát, ngoài ra không còn một hạnh phúc
giải thoát nào hơn. Thầy muốn nói nếu có một sự giải thoát nào từ chối sự hiện
hữu của vô thường, khổ, vô ngã thì đó là một sự giải thoát tạo nên càng thêm
nhiều mâu thuẫn và khổ đau, là một sự giải thoát giả tạo do chính bản ngã dựng
lên mà thôi.
Để Thầy kể cho con nghe câu chuyện vi tiếu này:
“Một thiền sinh bực mình về chuyện gì đó xảy ra trong viện với các thiền sinh khác, đến than phiền với thiền sư. Sư nói:
-
Chuyện như thế mà con không đương nổi sao?
-
Thưa Thầy, con thà đương sự giải thoát chứ
không thà đương cái chuyện bực mình đó.
Sư ôn tồn nói:
-
Thôi bỏ qua cái giải thoát của con đi, giải
thoát thật sự thì vạn pháp còn đương nổi huống là một chuyện bực mình”.
Con thương mến,
Bây giờ trở lại vấn đề tỉnh giác. Khi con thấy “đây là dao động”, “đây là lo âu”, “đây là thất vọng”, “đây
là chán nản”, “đây là khổ đau” v.v ... là tự nhiên con đã tỉnh giác rồi đó.
Nhưng vì con chưa thấy được giá trị của tỉnh giác một cách vô tâm như thế nên
con lại xen vào đó ý muốn giải thoát, thế là con đã đánh mất sự trong
sáng vô tâm của vai trò tỉnh giác đích thực. Ýmuốn giải thoát biến tỉnh giác
thành dụng cụ và như thế làm gia tăng mâu thuẫn, chồng chất vô minh, trong khi
tỉnh giác tự nó đã là cứu cánh rồi con ạ. Thầy quả quyết nếu con dẹp đi ý muốn
giải thoát (trốn tránh thực tại) con sẽ phục hồi được nguyên tính của tỉnh giác
và nó sẽ giúp con thấy các pháp như thực trong im lặng tuyệt đối,
và con sẽ không ngờ đó lại chính là giải thoát đích thực, là:
Mục đích có sẵn rồi
Nào phải vọng xa xôi
Dặm trình thong dong bước
Hoa trắng nở ven đồi.
Thật vậy, có ai ngờ tất cả đang ở nơi thanh tịnh, chỉ vì vô minh, ái dục vọng động dấy lên để rồi chỉ thấy đâu đâu cũng
là luân hồi đau khổ. Phật dạy trong Dìgha Nikàya: “Một khi đã thanh tịnh thì
thấy tất cả các pháp đều là thanh tịnh”. Vậy hãy coi chừng ý muốn giải
thoát (lẩn tránh) là cái vọng động dấy sinh làm mất thực tánh các pháp đang vận
hành.
Khi được hỏi: “Có cần ước muốn giải thoát mới được giải thoát không?”, Đức Phật trả lời: “Dầu không có ước muốn
giải thoát mà thực hành đúng vẫn giải thoát” (Majjhima Nikàya).
Nhưng thế nào là thực hành đúng? Con chỉ cần sáng suốt, định tĩnh, trong lành để có thể “thấy như thực thấy, nghe
như thực nghe, xúc như thực xúc, biết như thực biết” như Đức Phật đã
dạy. Một vị tỳ kheo biết mình sắp lâm chung liền tinh tấn thực hành những lời
dạy đó của Phật và đã tự mình giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Để thấy nghe như
thực, vị ấy phải thấy nghe với im lặng tuyệt đối, phải để các
pháp hiện đúng bản lai diện mục của nó, chứ không thể lẩn tránh nó được.
Trong kinh chép rằng có vị giải thoát như vậy ngay trong điều kiện mù lòa, tàn tật hoặc bịnh hoạn liên tục, v.v... Thầy
nhắc như vậy để một lần nữa xác minh rằng giải thoát không cần phải loại trừ
đau khổ. Đức Phật cũng đã xác minh điều đó với một người đau khổ cùng cực là
nàng Pàtacàrà, không phải diệt trừ khổ đau mà chỉ cần diệt trừ nguyên nhân đau
khổ. Trong im lặng tuyệt đối ở đó nguyên nhân đau khổ đã bị loại trừ, chúng ta
sẽ thấy cái gì hư ngụy tự nó hủy diệt và cái gì chân thật sẽ tự hiển bày mà
không cần phải dùng tới nhiều nỗ lực của ý chí và ước mong lẩn tránh nào.
Con ạ, thật là giản dị nếu con có ước muốn, con hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối rằng “đây là ước muốn”. Nếu con có
dao động, con hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối “đây là dao động”. Nếu con
có chán nản, con hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối “đây là chán nản”. Nếu
có khổ đau, con hãy lắng nghe trong im lặng tuyệt đối “đây là khổ đau”... Khi
nào con như thực thấy “nó phát sinh như vậy”... “nó an trụ như vậy”... “nó hủy
diệt như vậy” tự nhiên con sẽ thoát ly đau khổ (Atha nibbindati dukkhe) tuy
rằng chúng vẫn đến và đi nhưng không bao giờ còn có thể chi phối con nữa.
Cuối cùng khi dừng bút, Thầy tặng con bài thơ mà Thầy đã viết tặng cho bằng hữu của con ở nước ngoài:
No way to Nibbàna
Ways only to Màra
Just look at what you are !
And give up Màra with Nibbàna.
No way to Pannà
Ways only to Avijjà
Just look at what you are !
And leave Avijjà to Pannà.
At last, ever you believe
that no difference between
Nibbàna and Màra
Avijjà and Pannà.
Thân
ái chào con,
Thầy.
|
[Thư số 6]
Ngày ......... tháng ........ năm .........
Con thương mến,
Tối hôm qua mẹ con và H.T đem thư và ảnh của con đến cho Thầy. Đó là lá thư Thầy nhận được từ khi con đi. Dường như thư
con không mất mà thư Thầy viết cho con thì thất lạc hết rồi.
Ảnh chụp trông buồn quá, buồn cũng phải, nhưng con nhớ phải “tùy sở trú xứ thường an lạc” mới được.
Ngày xưa, khi con chưa biết đạo, có lẽ con đã nhập cuộc không một chút dè dặt. Nhưng ngày nay sau khi con biết đạo và đã
chuẩn bị cho mình một hàng rào đạo đức thì có vẻ như con hơi lúng túng trước sự
phức tạp của cuộc đời, có phải thế không?
Con ạ, đó là hai cực đoan mà người ta thường vấp phải khi đối diện với cuộc đời. Nếu con tùy thuộc không một chút tỉnh
thức thì con bị cuốn trôi trong dòng thác lũ của những ảo hóa trần gian. Nhưng
nếu con quá cẩn thận e dè thì con sẽ bị bỏ rơi bên bờ cuộc sống. Đáng thương
thay cho những ai lặn hụp trong biển đời không tìm thấy đâu một phút giây tự
tại. Cũng đáng thương thay cho những ai trang bị cho mình quá nhiều giá trị để
chỉ đào sâu thêm hố ngăn cách với cuộc đời.
Vậy phải làm sao? Không phải làm sao cả. Mọi vấn đề chỉ giải quyết ngay chính nơi con mà không cần thêm bớt gì nữa. Con
không cần phải tập luyện yoga, thiền định hay thái cực quyền tới một mức thâm
hậu nào mới khả dĩ đối phó với đời. Bao lâu con còn cầu viện tới một sở đắc
nào, một điều kiện nào, một trang bị nào, một kiến thức nào, thì con vẫn còn
hướng ngoại cầu huyền, hay ít ra con vẫn còn bị nô lệ bởi những triền phược do
chính những sở đắc ấy tạo nên.
Con sẽ phải đối phó với đời bằng hai bàn tay trắng hay bằng những gì con đã có sẵn mà thôi. Có lần Thầy đã nói
với con:
Học đạo quý vô tâm
Làm nghĩ nói không lầm
Sáng trong và lặng lẽ
Giản dị mới uyên thâm
Vũ khí của con là sự giản dị. Giản dị thì không có vấn đề. Không có vấn đề thì con sáng suốt, trong lành và tĩnh lặng.
Có như thế con mới hành động, nói năng, suy nghĩ thích ứng và hồn nhiên.
Thăng - trầm, động - tịnh, khổ - vui... đều hồn nhiên trong sáng tức là tự tại, là vô tâm, là giải - đất - bình -
an - muôn - đời ở nơi con.
Con thương mến,
Viết đến đây, Thầy nhớ trong thư con có nói: “Trở về quê hương là việc quá xa vời mà trở về quê hương của Phật còn gian
khó vô vàn...”. Nhưng nếu con nhận ra rằng quê hương nào cũng ở chính nơi con
thì có lẽ con sẽ thốt lên câu: “Nhiên khứ lai hề thiên thu giả mộng!” như
trong bài thơ Lai Khứ của Thầy vậy.
Chắc con đã có lần đọc bài thơ “Thiên để nguyệt” của Thầy mà không để ý. Nhân đây Thầy chép lại và dịch cho con
nghe ý của bài thơ đó:
Viễn viễn phong đầu phi
Vong xứ điểu vô qui
Hốt phùng thiên để nguyệt
Qui hà, qui hà vi !
Hai câu đầu Thầy tả một con chim mất xứ sở (vong xứ điểu) đang bay càng lúc càng xa (viễn viễn) trước ngọn
gió cuốn đi vô định (phong đầu phi), chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà
thì làm sao tìm được lối về cố quận. Câu thứ ba là đột biến của cuộc đời giữa
khi con chim cô đơn mất hướng đang bay vào chân trời vô định, giữa lúc “thuyền
tâm lạc giữa trận tiền phong ba” thì bỗng gặp một mảnh trăng vàng minh
linh chiếu diệu, lồng lộng bên trời (hốt phùng thiên để nguyệt), thì
ra:
Quê
hương vẫn là đây
Trăng
vẫn mảnh trăng này
Ngàn
sau ngàn sau nữa
Lồng
lộng giữa trời mây
Và câu thứ tư, từ khi con chim bỗng gặp “thiên để nguyệt” thì không còn vấn đề đi hay về nữa. đâu cũng là quê
hương, đâu cũng là viễn xứ thì về đâu? Về để làm gì (qui hà, qui hà vi !)?
“Hốt phùng thiên để nguyệt” là một cách nói thi vị thay cho thuật ngữ “hoát nhiên đại ngộ” của nhà thiền.
Cũng như ngộ, “thiên để nguyệt” không thể tìm thấy ở bất cứ chân trời
góc biển nào, mà chỉ tìm thấy ngay nơi chính mình, nơi mà nó vẫn muôn đời chiếu
diệu.
Hễ ngay đây và bây giờ con không có vấn đề gì với thực tại hiện tiền tức là con thấy tánh, là “hốt phùng thiên để
nguyệt”. Niết-bàn không xa, chỉ tiếc con người cứ mãi cố gắng đi xa
Niết-bàn. Quê hương của Phật là nơi gần con nhất, sao con lại phải về đâu nữa
để rồi tự thấy khó khăn trở ngại.
Khi Đức Phật dạy: “Chớ có buông lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy làm cho sung mãn tuệ xả, hãy tu học tịch tịnh”
là Ngài muốn dạy chúng ta không nên vọng động hướng ngoại cầu huyền, không nên
tìm kiếm thêm bất cứ cái gì ở ngoài, chỉ nên thấy các pháp như thật (chân đế),
không có vấn đề gì (sung mãn huệ xả), tức nhiên tâm ta sẽ điềm đạm hư vô
và trong sáng (tu học tịch tịnh).
Nói thì rắc rối nhưng sự thật còn giản dị hơn nhiều, con phải tự chứng nghiệm sự thật giản dị ấy, Thầy không có cách nào
nói nhiều hơn được.
Thầy ngừng bút và chúc con tự tại vô ngại trong mọi hoàn cảnh.
Thầy.
|
[Thư số
7]
Ngày ........ tháng ........ năm ........
Con
thương mến,
Đọc thư con Thầy rất xúc động. Con là người đệ tử ít được Thầy hướng dẫn nhất và bây giờ con lại ở rất
xa, điều kiện thư từ thật khó khăn nên Thầy không làm gì được để chia sẻ những
nỗi khổ đau của con.
“Con người” như William Faulkner đã nói “là tổng số những nỗi bất hạnh” mà mỗi người phải
tự đương đầu một mình. Không ai có thể gánh vác cho ai bất cứ điều gì, vì ngay
mỗi người còn chưa giải quyết được cho chính mình những bước thăng trầm mà mình
phải đi qua trong cuộc đời đầy khó khăn phức tạp này. Đạo lý, tâm lý, quyền
năng, sức mạnh v.v... đều vô nghĩa đối với những nỗi thống khổ của cuộc đời,
của con, của Thầy và của tất cả chúng sinh. Thầy cũng là người với tất cả những
nỗi bất hạnh rất người, cho nên giữa chúng ta, giữa con người, chỉ còn lại tình
thương yêu, thông cảm và mở lòng chia sẻ với nhau những bước thăng trầm giữa
cuộc phù sinh. Thầy gọi đó là tình người.
Con có những nỗi bận tâm băn khoăn lo tính cho bạn bè, cho những người thân yêu, và để giải quyết những
vấn đề khó khăn cho những người liên hệ hay cho chính bản thân con thì con nghĩ
rằng phải có kiến thức, phải biết đắn đo suy nghĩ, phải thừa tài năng, tiền của
hay địa vị, nhưng con có biết không, mối bận tâm lo lắng ấy chỉ là bệnh, là
bệnh trách nhiệm của thời đại! Hậu quả của nó là suy nhược, một điều không sao
tránh khỏi.
Con ạ, lo âu, suy nghĩ, đắn đo, toan tính, v.v... không phải là tình người, không phải là lòng từ bi,
bác ái, không đem lại hạnh phúc cho mình và người mà chỉ chồng chất thêm những
nỗi bất hạnh trong cuộc đời vốn đã nhiều bất hạnh.
Thầy nói rằng chúng ta chỉ cần có tình người, nghĩa là có một tâm hồn cởi mở đủ để thương yêu, thông
cảm, bao dung, tha thứ và chia vui sẻ buồn với người mà thôi, chứ không cần quá
quan tâm lo toan giải quyết vấn đề cho kẻ khác. Mỗi người phải tự lo lấy vận
mệnh của họ cũng như ta phải tự lo lấy đời sống của mình. Như vậy không phải là
ích kỷ đâu. Ích kỷ thì làm sao có được một tấm lòng cởi mở, thương yêu. Và khi
Thầy nói tự lo lấy thì cũng không nghĩa là chỉ biết có mình mà thôi,
vì tự lo lấy còn hàm nghĩa tự lực, tự cường hoặc độc lập, không bị lệ thuộc và
hơn thế nữa tự giải thoát mình ra khỏi ích kỷ cá nhân.
Khi con lo tính cho bạn bè, quyến thuộc, những người thân yêu hay cho chính con cũng đều là ích kỷ cả.
Vì sự toan tính đó sẽ chẳng bao giờ đưa con đến cởi mở, vị tha, thương yêu và
thông cảm thực sự.
Khi nào tình thương yêu thông cảm thực sự hiện hữu, khi đó chỉ có sự tươi mát, dịu dàng, khinh an, thư
thái chứ không bao giờ có căng thẳng và thở ra. Căng thẳng là triệu chứng của
suy nhược và thở ra là dấu hiệu của bệnh phổi hoặc bao tử. Nhà thương Mỹ chỉ có
thể chữa cho con những bệnh trạng chứ không thể chữa cho con nguyên nhân của
bệnh. Nhưng chữa khỏi bệnh trạng này thì lại sinh ra bệnh trạng khác và rồi rốt
cuộc cũng chẳng đi đến đâu nếu con không biết tự chữa lấy căn nguyên của bệnh,
nghĩa là tự giải thoát ra khỏi những lo âu toan tính giữa cuộc đời huyễn hóa
phù du.
Con ạ, Thầy không bi quan tiêu cực khi khuyên con nên sống giản dị, thanh thản và trong sáng với lòng
mình, với cuộc đời, vì cho đến khi đó con mới thấy rằng mình có đầy sinh lực và
nhiệt tình để có thể thực sự tích cực yêu thương và phục vụ con người.
Kiến thức, tài năng, tiền của, sắc đẹp có thể không cần thiết là bao cho tình yêu thương và phục vụ.
Trái lại, có khi nó còn là trở ngại nữa. Con hãy tưởng tượng một người tầm
thường nhất, một cô giúp việc không có tài năng, kiến thức, của cải, sắc đẹp và
địa vị gì ráo, nhưng nếu cô ta chất phác, thật thà, trong lành, giản dị, giàu
tình yêu thương và sẵn sàng giúp đỡ thì mọi người sẽ chọn cô ta hơn là chọn một
triết gia, có phải thế không? Không biết Thầy có cổ hủ không khi nhận xét rằng trí
thức không bằng trong sáng, tài năng không bằng chân tình, tiền của không bằng
thanh bạch, sắc đẹp không bằng hiền thục, lo tính không bằng sẵn lòng v.v...
Những điều trước phải vất vả mới tạo được nhưng đôi khi không giải quyết được
gì mà còn tai hại nữa. Trái lại những điều sau ai cũng sẵn có, chỉ cần biết
khai thác là nó trở nên phong phú ngay.
Kiến thức, tài năng bao giờ cũng chỉ là những sở đắc phiến diện, tương đối và dễ lỗi thời. Nhưng trong
sáng và cởi mở (sẵn sàng thông cảm, thương yêu, tha thứ và phục vụ...) thì lại
là một kho tàng vô tận sẵn có nơi con. Trong sáng là cha đẻ của mọi kiến thức
và sẵn sàng là mẹ sinh của tất cả tài năng, đức hạnh. Vì vậy con không nên chạy
theo những gì phù phiếm mà bỏ quên căn cội mạch nguồn.
Con ạ, theo Thầy thì trong một xã hội càng phức tạp bao nhiêu ta lại càng phải giản dị trong sáng bấy
nhiêu mới có thể ứng phó kịp thời những thế sự đa đoan. Đừng trù bị cho mình
quá nhiều để rồi chỉ thêm luống cuống trước những biến chuyển khó lường của
cuộc sống vô thường ảo hóa. Cũng như một người sống quá tiện nghi sẽ không còn
khả năng thích ứng với những biến đổi thiên nhiên nữa. Hoặc như một người đánh
vợt chuẩn bị quá kỹ để không còn đỡ kịp những cú bất ngờ không sao liệu trước.
Thế rồi một người với đầy đủ khả năng, kiến thức cuối cùng thật sự chẳng làm nên việc gì cho đời và hy
vọng bảo anh ta rằng: “Hãy tiếp tục! Hãy tiếp tục! Rồi anh ta đi đến nấm mồ”,
đó là lời nói nổi danh của Mác de Maintenon.
Con thương mến,
Thầy viết những dòng trên chỉ với tình thương của một vị Thầy đối với người đệ tử, muốn sẻ san với con
những khó khăn trong cuộc đời. Thầy không phê phán chỉ trích con đâu, Thầy
trình bày thẳng thắn như vậy vì nghĩ rằng không nên an ủi suông để vui lòng con
trong chốc lát mà phải làm sao cho đệ tử hiểu được sự thật của những nỗi khó
khăn và thay đổi tận nguồn những nỗi khó khăn ấy. Miễn sao con được an vui hạnh
phúc là Thầy mãn nguyện.
Cầu
cho con luôn trong sáng, hồn nhiên và trầm tĩnh giữa cuộc đời biến đổi thăng
trầm.
Thầy
|
[Thư số
8]
Ngày ........ tháng ........ năm ........
Con thương mến,
Hôm nay Thầy vừa đi Mỹ Tho về thì được HT cho đọc một lô thư của con, trong đó có hai bức thư gửi về
Thầy đề ngày 15 -10 -1981 ở Sungi Bei và 31-10 -1981 tại Batnan. Thư đi đã chậm
mà con lại đổi chỗ luôn nên viết thư cho con mà không hy vọng con đọc được tí
nào, sợ rồi cũng như số phận những lá thư trước.
Cách đây nửa tháng Thầy có nhận được thư T, T nói rất nhiều về vị sư người Anh và có nói Thầy viết thư
cho ông ấy. Thầy biết viết gì bây giờ, vì cứ như T nói thì vị sư ấy khá gàn như
trước đây Thầy cũng đã từng gàn với những lý lẽ vô phân biệt, bình đẳng... thật
kêu mà rồi bây giờ lại thấy vô ích.
Con ạ, đời sống chẳng có lý lẽ gì cả dù là siêu đến đâu. Có bao nhiêu lý lẽ có bây nhiêu lý luận tranh
chấp và kiến thủ. Con thấy đó, chính con đang trải qua biết bao là biến đổi,
đối phó với biết bao là bất ngờ. Không có lý lẽ nào có thể ứng dụng cho thực
tại biến ảo linh động này. Sau mùa xuân chưa chắc đã là mùa hạ, có phải thế
không con?
Chỉ có sống mới có thể hòa nhập với sự sống. Chính vì vậy mà Thầy cứ nhắc các con là chỉ nên sống với
tấm lòng cởi mở sao cho đủ trong sáng, bình dị để tiếp ứng lập tức và bén nhạy
với những điều mới lạ đến và đi trong đời.
Hài nhi và ngạc nhiên là hình ảnh của con người giác ngộ, bình dị, cởi mở, trong sáng trước mọi biến
đổi. Không phải lý hay sự nào có thể dung hóa được cuộc đời mà chính là ta phải
hết sức bình dị trong sáng để “huyền chi hựu huyền” với cuộc đời đa
diện. Con bảo “Thầy đặt pháp danh cho con là Huyền Chi mà con lại thấy khó hòa
đồng”. Huyền đồng hay hài hòa là ở tâm hồn con, ở nơi sự trong sáng, bình dị
không nhiều tư lự lụy phiền của con chứ Thầy đâu có bắt con dự phần vào tất cả
mọi sinh hoạt vô ích ở đời. Nếu con không thích lửa trại, văn nghệ, ca hát con
có quyền ngồi một mình bên bờ suối hay tụng một thời kinh trong chùa hay nghe
mục sư giảng đạo v.v..., đó là quyền của con miễn là con làm việc gì hay không
làm việc gì cũng với tâm hồn trong sáng, cởi mở và hồn nhiên, thế thôi. đừng
hiểu lầm Thầy mà hòa đồng vào những chuyện thị phi vô lối.
Con lại hỏi Thầy “vì sao con tự buộc mình vào việc học để phải chịu chấp nhận nghiệp lực xoay”. Sao con
lại cho việc chăm chỉ học hành, chăm chỉ làm việc là nghiệp lực xoay? Không
phải vậy đâu con ạ, nếu con chấp nhận một thái độ tiêu cực xa lánh mọi việc học
hành, phục vụ... thì con không bị nghiệp không xoay hay sao? Các thiền
sư dạy rằng: “Thà chấp hữu còn hơn là chấp không”. Còn Thầy trong bài
thơ Cứ chèo Thầy viết:
A ha ! đâu cũng là biển cả
Ngại chi ta chẳng chèo !
Vậy có sá gì việc học hành mà con cho là ràng buộc hay sợ nghiệp lực xoay. Con cứ học hành đi, Thầy bắt
chước lời Nietzsche để khuyên con “hãy làm theo ý muốn của con miễn là con có
khả năng để ước muốn” và Thầy nghĩ rằng người có khả năng để ước muốn
(như Khổng Tử nói: “Tòng tâm sở dục bất du củ”) là người bình dị, trong
sáng hồn nhiên và cởi mở, là người an ổn nơi chính mình, là người sẵn sàng chấp
nhận mọi sự cũng như sẵn sàng từ bỏ mọi sự không một chút ngại ngùng. Nếu con
được như vậy, Thầy xin tặng con bài thơ này:
Nếu mai mốt còn vào ra sinh tử
Bước thăng trầm đâu sá kể nguy nan
Nếu giờ đây vẫy tay chào cuộc lữ
Cát bụi này xin trả lại trần gian.
Thân
ái chào con
Thầy
|
[Thư số
9]
Ngày ........
tháng ........ năm ........
Con thương mến,
Đọc thư con Thầy
rất cảm thông với nỗi khổ tâm mà con đang chịu đựng - khổ tâm của
một người Phật tử bị bắt buộc phải bỏ đạo.
Thầy biết rằng không ai hiểu con giữa thế giới chia phân manh
mún trên mọi lãnh vực đó. Không ai chia sớt nỗi khổ của con khi mà ở
đó con người đang bận tâm tranh thủ cho cá nhân mình: tài sản, quyền
lợi, kiến thức, danh vọng, địa vị và phe phái.
Họ nói đến tự do nhưng thực chất là giam giữ con người trong
nô lệ của ý hệ và giáo điều. Họ chủ trương hòa bình nhưng thực chất
là giành giật nhau từ thể xác đến tinh thần. Họ hô hào tình thương,
bác ái, nhưng thực chất là hận thù đối nghịch. Họ cổ xúy bình đẳng
đại đồng nhưng thực chất là tự tôn, vị kỷ. Họ ca tụng văn minh nhưng
thực chất là dã man, cuồng loạn.
Hơn bao giờ hết con người đề cao hư danh hơn là sự thật, cao
rao lý tưởng hơn là thực tế, hy vọng tương lai hơn là thực tại, và
thân phận con người thật sự chỉ còn là khổ đau rách nát giữa những
bảng quảng cáo vô cùng hoa lệ!
Con thương mến,
Vì hoàn cảnh bắt buộc con phải bỏ Đạo Phật để theo Thiên Chúa
giáo và chính điều đó đang làm con băn khoăn, ray rứt phiền muộn,
chán chường. Con khốn khổ vì đã nghĩ rằng con phản bội Tam Bảo, phản
bội Thầy, phản bội bạn bè đồng đạo. Nhưng con ạ, con đừng buồn tủi
nữa, hãy sáng suốt bình tĩnh lên như ngày nào con còn ở bên Thầy,
được Thầy thương yêu, khuyến khích và an ủi những khi con gặp những
chuyện đau lòng.
Hãy cùng Thầy tin tưởng trọn vẹn rằng con không bao giờ bỏ
đạo, vì làm thế nào con có thể bỏ đạo khi đạo ở chính nơi con. Con
vẫn chưa hề phản bội Tam Bảo, phản bội Thầy và bạn bè đồng đạo, dù
con đang phải gia nhập bất cứ một tổ chức tôn giáo hay phi tôn giáo
nào.
Làm sao con có thể phản bội Phật khi con đang đi trên con
đường giác ngộ, vì tự tánh con là viên giác.
Làm sao con có thể phản bội Pháp khi con đang yêu thương và
tôn trọng lẽ thật, vì tự tánh con là chân lý.
Làm sao con có thể phản bội Tăng khi đó là niềm an lạc của
lòng con, vì tự tánh con là thanh tịnh.
Làm sao con có thể phản bội Thầy khi con đang thực hành lời
Thầy dạy.
Làm sao con có thể phản bội bạn hữu khi con đang cùng với họ
một hướng đi trên con đường thiện mỹ.
Dù khi con đang theo tổ chức Giáo Hội Thiên Chúa, Tin Lành
hay Hồi Giáo mà tâm hồn con minh mẫn, sáng suốt là con qui y Phật.
Tâm hồn con chân thật, trọn vẹn với sự sống là con qui y Pháp. Tâm
hồn con an tĩnh khỏi các tư dục, vọng động là con qui y Tăng. Con
hành động, nói năng suy nghĩ những điều đem lại an vui, hạnh phúc
cho mình và người trong mọi lúc, mọi nơi là con làm theo lời Thầy
dạy. Con biết yêu thương những giáo hữu Thiên Chúa, những tín đồ bất
cứ tôn giáo nào hoặc phi tôn giáo nào như con đã từng yêu thương
những bằng hữu Phật tử của con là con đã trung thành với bạn bè đồng
đạo.
Con ạ, Giáo Hội Phật Giáo hay Giáo Hội Thiên Chúa chỉ là hình
thức tổ chức. Những tổ chức ấy chưa hẳn đã đại diện được cho Phật và
Chúa. Nhưng vì loài người ưa hình thức thì đành phải có nhiều hình
thức để đáp ứng thị hiếu và căn cơ sai biệt của họ mà thôi.
Các tổ chức Giáo Hội đó đã đem lại cho loài người khá nhiều
lợi lạc, nhưng tai hại của nó cũng lớn lao không kém trong việc chia
phân manh mún tình người.
Có nhiều tôn giáo đã quên đi sứ mạng của mình là đem lại yêu
thương, hạnh phúc, bình đẳng, thái hòa cho nhân loại để rẽ vào con
đường bành trướng giáo quyền, thu thập tín đồ, kinh doanh tài sản,
truyền rao giáo hệ, thỏa mãn tự ái tín ngưỡng... bằng cách tán tỉnh,
dụ dỗ, hứa hẹn, chia rẽ, tự tán hủy tha, cao rao lý tưởng...
Chính Phật giáo cũng biến hóa ra nhiều hình thức tổ chức với
mục đích, khế cơ khế lý (vận dụng sao cho vừa hợp với đạo lý, vừa
hợp với trình độ của chúng sanh) vì đó là cái dụng tất yếu để phổ
hóa chúng sanh. Nhưng khế cơ thì tồn tại mà khế lý thì mất dần, nên
đôi khi cũng chỉ còn là nhãn hiệu.
Câu chuyện “vi tiếu” sau đây đánh thức chúng ta coi chừng
đừng quá huênh hoang với nhãn hiệu mà phải quay về thực chất.
Một tục gia đệ tử đang chuyên tâm nghiên cứu về quá trình lịch sử hình thành
phát triển và nội dung các học phái Phật giáo đến hỏi Sư:
-
Thưa
Thầy, Đại Thừa là gì?
Sư nói:
-
Là
dư nhiều.
Lại hỏi:
-
Còn
Nguyên Thủy và Tiểu Thừa?
Sư nói:
-
Thời
này hầu hết là Đại Thừa, Tiểu Thừa còn hiếm có, nói gì đến Nguyên
Thủy.
Con ạ, Đạo Phật Nguyên Thủy không phải là một hình thức tôn
giáo mà chỉ là con đường giác ngộ, con đường của sự sống chân mỹ
thiện muôn đời. Kẻ nào sống hướng thượng, vị tha, trong sáng, chân
thật và thanh tịnh, kẻ ấy theo Đạo Phật, kẻ ấy qui y Tam Bảo, kẻ ấy
giác ngộ chân lý, dù chưa hề qui y hay không đứng trong hàng ngũ
Phật giáo. Nhiều người tỏ ra lo ngại mai đây Phật giáo sẽ không còn
tồn tại. Riêng Thầy, Thầy tin rằng chân lý sẽ luôn luôn hiện hữu bất
cứ nơi đâu cho những ai có mắt để thấy, có tai để nghe và có tâm hồn
để thể hội.
Không có ranh giới cho kẻ giác ngộ. Họ có thể ở trong bất cứ
hàng ngũ nào, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, Bà
La Môn, Hồi Giáo v.v... hay không ở trong hàng ngũ tôn giáo, chánh
trị, phe phái nào cả. Kẻ nào có thể sống và thể nghiệm đời sống bằng
chính sự trong sáng, chân thực, trọn vẹn và an nhiên tự tại của mình
là người ấy giác ngộ, là đi con đường Phật Đạo.
Ngay trong từ Phật Đạo cũng đã nói lên tính chất phổ biến của
nó. Phật (Buddha) là giác ngộ (Budh, Bujjhati), là tuệ giác (Bodhi, Buddhi), là như thực liễu tri và viên
dung tất cả các pháp (Sammà Sambuddho, Lokàvidù).
Đạo là chân lý phổ biến (Dhammo), thiết thực hiện tại (Sanditthiko), vượt khỏi thời gian (Akàliko),
phải đến mà thấy (Ehipassiko), hướng về tự tánh (Opanayiko) và
người có trí tự mình chứng nghiệm (Paccattam Veditabbo
vinnùhi) không do ai khác đem đến cho mình.
Nói cho dễ hiểu Phật Đạo là con đường giác ngộ chân lý. Chân
lý ấy ở ngay trong sự sống, trong chính con. Cho nên Phật
dạy:“Hãy nương tựa chính mình, không ai khác có thể nương nhờ. Khi tự mình thuần tịnh ấy là nơi nương nhờ tối thượng” (Dhammapàda 160).
Vậy, dù con phải tùy thuộc gia đình hay xã hội để phải theo
một hình thức tôn giáo nào đi nữa thì chính con cũng phải đi con
đường giác ngộ lấy một mình, phải sống trọn vẹn với sự sống nơi bản
thân con, và thể hiện tình thương yêu vô ngã, vị tha cho tất cả mọi
người.
Nếu Chúa đích thực là “Đường đi, lẽ thật và sự sống”
(Jiăng 14/6) thì cũng không khác gì Bát Chánh đạo, con đường của sự
sống chân thực. Và Đức Phật xác nhận: Ở đâu có Bát Chánh Đạo, ở đó có giác ngộ, giải thoát”
.
Cho nên vấn đề không phải con nên theo tổ chức Giáo Hội nào mà chính là con có
thể sống đúng chân lý. Không phải con chọn cho mình chỗ đứng nào thuận lợi nhất
mà chính là con có thể đứng được bất cứ nơi nào. Không phải con thu thập được
bao nhiêu kiến thức mà chính là khả năng trong sáng để con có thể có được tri
kiến như thực. Không phải con được gia nhập một phe phái nào đúng nhất mà chính
là tấm lòng cởi mở để con có thể thương yêu, phục vụ, cảm thông và hòa đồng với
tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, ý hệ.
Con thương mến,
Lúc con còn sống bên Thầy, Thầy đã từng cho con đi nghe giảng
ở nhà thờ, hay đọc bất cứ kinh sách nào, không phải để con thu thập
nhiều kiến thức mâu thuẫn và đa tạp mà để con có thể mở rộng tâm
hồn, xóa bỏ những ngăn cách chia biệt và thành kiến cố chấp. Có như
thế mạch nguồn của sự sống mới khai mở trong tình người bao dung hòa
điệu.
Bây giờ con hãy tiếp tục đi nhà thờ như ngày nào con đã từng
đi với bạn bè và về kể cho Thầy nghe, đâu có gì ngăn ngại khi tâm
hồn con cởi mở bao dung.
Con ơi, nếu con
biết rằng: “Hạnh phúc hay đau khổ cũng do con, thanh tịnh hay ô nhiễm cũng do con, thánh thiện hay hung ác cũng do con” thì con
phải tự mình giác ngộ và nếu trong một hơi thở con có thể hồn nhiên
trong sáng và trọn vẹn với chính mình thì cũng đủ cho con xóa tan
bao nhiêu hận thù chia biệt giữa cuộc đời rách nát đau thương.
Trước khi ngừng bút, Thầy chép cho con một đoạn Kinh Tâm
Từ (Mettà Sutta)
để nếu con thích, hãy khẽ đọc một mình:
Như mẹ giàu tình thương
Suốt đời lo che chở
Đứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Cùng tất cả sinh linh
Từ bi gieo cùng khắp
Cả thế gian khổ hải
Trên dưới và quanh mình
Không hẹp hòi oan trái
Không hờn giận, oán thù
Khi đi, đứng, ngồi, nằm
Bao giờ còn thức tỉnh
Giữ niệm từ bi này
Thân tâm thường thanh tịnh
Phạm hạnh chính là đây
Ai xả ly kiến thủ
Giới hạnh được tựu thành
Chánh tri đều viên mãn
Không ái nhiễm dục trần
Thoát ly đường sinh tử.
Thân ái chào con. Thầy
|
[Thư số
10]
Ngày ........
tháng ........ năm ........
Con thương mến,
Con đã trình bày khá rõ trình độ học Phật của con, có như thế
Thầy mới dễ hướng dẫn con hơn.
Lúc đầu ai cũng thế, tin Phật một cách sai lạc, nhưng càng
theo, càng hiểu rõ Phật hơn và dần dần điều chỉnh những quan niệm
sai lầm của mình.
Từ nhỏ con đã hiểu Đạo Phật là ăn chay, thắp hương, niệm
Phật, khấn vái, cầu xin, sám hối v.v... để được ban phước và xá tội.
Tín ngưỡng ấy mất dần tính chất thần quyền và chuyển thành
những lý tưởng siêu nhiên theo lối siêu hình học. Rồi tính siêu hình
cũng mất dần để nhường chỗ cho khuynh hướng triết học mà ở đây vai
trò trọng yếu là luận lý. Sau đó luận lý phải nhường bước cho đời
sống xã hội thực tế hơn và từ đó tính đạo đức xuất hiện.
Khi Đạo Phật được hiểu theo lối tu thân hay đạo làm người là đã có tính đạo đức. Đạo Phật càng được hiểu thực tiễn
chừng nào, càng đúng chừng đó. Tuy nhiên thực tế của người ngộ khác
xa thực tế của kẻ mê.
Có một vị thiền sư khi ngộ đã tuyên bố: Lúc chưa tu ông thấy
núi chỉ là núi, sông chỉ là sông. Sau ông nhập đạo tu hành, ông thấy
núi không phải là núi, sông không phải là sông. Nhưng đến khi giác
ngộ, ông lại thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông.
Núi là núi, sông là sông thế mà khi mê không giống ngộ. Do
vậy giá trị của Đạo Phật là ở chỗ chuyển mê khai ngộ chứ không phải
ở tín lý, siêu lý, luận lý hay đức lý... như người ta thường hiểu.
Tín lý, luận lý, siêu lý, đức lý,... đều có trong Đạo Phật,
nhưng đó chỉ là hình thức bề ngoài tùy theo căn cơ sai khác của con
người. Cốt tử của Đạo Phật vẫn là giác ngộ.
Con thích đọc
sách học làm người, lại nghiên cứu Đạo Phật để có thể có được một
“bonne vie” như con nói, vậy là con thiên về đức lý. Nhưng
như Thầy đã nói, đức lý là kết quả phụ tùy của người ngộ đạo và sống
đạo chứ không phải là điều kiện tất yếu để giác ngộ giải thoát. Ví
như người quán thông bệnh và thuốc có thể do vậy mà không bệnh,
nhưng không phải ai không bệnh cũng thông hiểu bệnh và thuốc. Có khi
ngược lại là khác. Cũng vậy, một người giác ngộ chân lý của sự sống
có thể vì vậy mà có đạo đức, nhưng không phải ai có đạo đức cũng đều
giác ngộ, có khi càng đạo đức càng ngã mạn, cố chấp và quá xa để
giác ngộ.
Khi người ta nói: “Une bonne vie, voilà la vraie religion” thì ở đây religion chỉ là một tôn giáo bình thường hiểu theo
nghĩa đức lý, chứ không hiểu theo nghĩa giác ngộ như Đạo Phật. Không
dùng thuật ngữ religion để dịch Đạo Phật được. Tốt hơn dùng thuật
ngữ Bouddhisme để dễ phân biệt hơn. Vì Bouddhisme bắt nguồn từ Phạn
ngữ Bodhi, Buddhi... có nghĩa là giác ngộ. Rama Krishna, một giáo sư
người Ấn nổi tiếng dạy Phật học tại các đại học phương Tây đã định
nghĩa “Phật giáo là con đường sống” (Buddhism is the way of
life). Định nghĩa như vậy rất đúng, nhưng dường như cũng có vẻ
nghiêng về tính đạo đức hơn là tính giác ngộ.
Vì con hiểu Đạo Phật theo nghĩa đức lý do đó không khỏi đưa
đến điều khổ tâm mà con trình bày: “Càng đọc sách hay, càng biết nhiều điều tốt, cách sống tốt v.v... con càng thấy khổ tâm
khi thấy rằng con có nhiều tánh xấu quá. Biết điều đó là hay, là tốt mà con
không làm được cho hay cho tốt, không khắc phục được những tánh xấu của mình,
con đâm ra lo âu buồn phiền hơn”. Thật là quá đúng.
Mâu thuẫn đó là điều tất nhiên. Nó không bao giờ có thể được giải
quyết trừ phi con chuyển cái nhìn đức lý của con thành cái nhìn giác
ngộ. Nghĩa là trước kia con để yếu tố đạo đức đóng vai chính, nay
con hãy để cho yếu tố giác ngộ đóng vai chính và đưa đạo đức xuống
vai trò thứ yếu là con có thể giải quyết được mâu thuẫn trên một
cách dễ dàng ngay.
Nếu con có đọc Nho giáo thì đạo đức thuộc về mệnh và giác ngộ
thuộc về thiên. Phải “thuận thiên lập mệnh” mới được. Thế mà
các nhà nho đã quá đề cao khuôn khổ đạo đức nên Nho giáo càng ngày
càng mất hẳn tính chất giác ngộ. Cùng lý tận tính hay cách vật trí tri là thuật ngữ của nho giáo để chỉ sự giác ngộ.
Để Thầy ví dụ thực tế cho con dễ hiểu, dễ hành. Trước kia khi
giận dữ con muốn trấn áp nó bằng đức trầm tĩnh hay hỷ xả (lý tưởng
đạo đức), và con cố gắng để khắc phục, dồn nén cơn giận dữ. Con thấy
không thành công, đó là lẽ dĩ nhiên. Một khuynh hướng nội tâm khi đã
hiện hành bị dồn nén sẽ ở trong thế ẩn ức và chờ dịp trỗi dậy qua
ngỏ ngách khác nguy hiểm hơn. Càng dồn nén, càng tạo mâu thuẫn nội
tâm. Mâu thuẫn càng gia tăng càng đưa đến thần kinh căng thẳng và
suy nhược, đó là kinh nghiệm của những người tu hành khắc kỷ
theo lối đạo đức khuôn khổ.
Trong trường hợp này làm sao con chuyển yếu tố đạo đức qua
giác ngộ? Trước hết con hãy để qua một bên ý định khắc phục giận dữ.
Con hãy âm thầm lắng nghe cơn giận dữ đó xem nó phát sinh thế nào và
bình thản theo dõi nó cho đến khi lắng dịu và biến mất. Thấy được
cơn giận dữ từ khi nó phát sinh cho đến khi nó chấm dứt có nghĩa là
tỉnh giác trước một sự kiện nội tâm và đó chính là tự giác như Đức
Phật đã dạy. Càng lặng lẽ khách quan lắng nghe cơn giận dữ đó bao
nhiêu càng giác ngộ nó rõ ràng bấy nhiêu. Chúa dạy trong Thánh Kinh:
“Ta đến như kẻ trộm, phước thay cho kẻ nào ngày đêm tỉnh thức” cũng là ý đó. Khi con lắng nghe sự sinh, diệt của cơn giận
dữ một cách chăm chú không xao lãng con sẽ hiểu được nó và thấy nó
biến mất một cách vô cùng mau chóng. Lúc đó mặc dù con đang giận dữ
con vẫn thanh tịnh trong hai thời: thanh tịnh lắng nghe cơn giận và thanh tịnh khi cơn giận biến mất.
Như vậy, dù con không cố gắng dồn nén, khắc phục cơn giận để
được trầm tĩnh thế mà cơn giận dữ vẫn biến mất trong sự tỉnh giác
của con. Nhưng điều quan trọng không phải là nó có biến mất hay
không mà là con có lắng nghe được nó trọn vẹn hay không, con có giác
ngộ được hành tướng sinh diệt của cơn giận dữ hay không. Cơn giận có
thể tùy điều kiện phát sinh lại trong một dịp khác. Càng tốt, vì con
có dịp giác ngộ nó rõ hơn. Một ngày kia con làm chủ được cơn giận dữ
của con là vì con đã giác ngộ được nó hoàn toàn, đó là lý do tại sao
Thầy nói với con giác ngộ là chính, còn đạo đức chỉ là yếu tố phụ
tùy.
Tất cả những hành động, lời nói, ý nghĩ khác cũng vậy, hãy
giác ngộ chúng thì chúng sẽ trở nên đạo đức chứ đừng bắt chúng phải
đạo đức một cách miễn cưỡng mà tạo nên những mâu thuẫn đấu tranh
căng thẳng.
Sách dạy làm người, Nho giáo hiểu theo nghĩa luân lý khắc kỷ,
đều là những khuôn khổ đạo đức nguy hiểm khiến con người bị nô lệ
vào đạo đức giả tạo hơn là giúp con người có khả năng sáng tạo đạo
đức. Luân lý bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tùy thời, tùy chỗ, tùy dân
tộc tính v.v... chứ không bao giờ tuyệt đối. Chỉ có con người giác
ngộ mới đích thực có đạo đức tự mạch nguồn nội tại. Phép lịch sự của
Âu Mỹ không phải là nghi lễ của Đông phương. Rèn luyện ý chí nghị
lực theo lối Tây phương có thể là mối nguy cho đời sống tự nhiên
thanh thản của tinh thần Lão Trang. Vậy đâu là đạo làm người đích
thực? đâu là “Une bonne vie” ?
Đạo Phật ra đời chỉ nhằm khai thị cho chúng sinh cách hóa
giải những mâu thuẫn đức lý kia bằng con đường giác ngộ. Và đó chính
là tính ưu việt của Đạo Phật giữa những tôn giáo, triết học ở đời.
Mong con lãnh
hội được những điều Thầy muốn nói.
Thân
ái chào con.
Thầy
|
-ooOoo-
Ðầu trang
| Lời nói đầu |
01 - 10 |
11 - 20 |
21 - 30 |
31 - 42 |
|