1.
TRẢ ĐŨA
Lão
hành khất vào ngồi trong hiên chùa, bắt đầu bữa ăn xin được trong ngày: ít vắt
cơm, muối và... một con cá rô cây.
Người
gác chùa quan sát bữa ăn, thấy con cá rô cây được đẽo gọt khá cẩn thận, dọn ra
giống y con cá thật đã được nấu nướng đàng hoàng. Ông hỏi người hành khất với
giọng châm biếm:
-
Này ông lão, ông làm gì với con cá gỗ ấy hay cuối cùng cũng chỉ cơm với muối?
Lão
hành khất bình tĩnh đưa tay chỉ tượng Phật bằng đá trên tòa sen giữa chánh điện
trảđũa:
-
Này ông bạn, còn ông làm gì với tượng Phật đá kia hay cuối cũng cũng chỉ vô
minh với ái dục?
۞
Lời
góp ý:
Thờ
cúng chỉ mang tính cách tượng trưng, thế rồi những tôn giáo cổ xưa đã biến
thành những nghi lễ huyền bí và những buổi hiến tế phức tạp..., tưởng qua đó họ
có thể được cứu rỗi. Nhưng Đức Phật xem đó chỉ là giới cấm thủ (mê tín,
dị đoan, hình thức ràng buộc), và Ngài dạy rằng chỉ có sống đúng pháp
(Dhammànudhammà patipanno vihàrati) mới là tôn kính, cúng
dường, lễ bái Như
Lai
một cách
cao thượng.
Xưa có một người xuất gia theo Phật chỉ mong
hàng ngày được lễ bái và chiêm ngưỡng 32 tướng tốt của Ngài. Đức
Phật trách: “Dẫu cho hàng ngày con có nắm chéo y Như Lai
và bước theo từng dấu chân của Như Lai thì cũng vẫn xa Như
Lai vời vợi. Người nào sống đúng Pháp mới gọi là gần gũi, cung kính,
lễ bái, chiêm ngưỡng Như Lai một cách chân chính”.
Hàng
ngày sống bên Đức Phật, lễ bái, chiêm ngưỡng và đặt trọn niềm tin ở Ngài vẫn
còn bị Ngài khiển trách, huống nữa chỉ biết lễ lạy, tụng đọc trước tượng Phật
bằng đá để cầu xin cứu độ thì muôn đời cũng không bao giờ nếm được chút hương
vị giác ngộ giải thoát.
Tin
tưởng, lễ bái, cung kính, chân thành, tri ân, tinh khiết,... là những nhân tố
của phương tiện thờ cúng, nhờ đó đem lại hạnh phúc, hân hoan, thái hòa, an
lạc,... cho những kẻ sơ cơ. Nhưng cho đến một lúc nào đó phải biết thoát ra
khỏi phương tiện, vì dù tin Phật dưới bất cứ hình thức nào cũng đều phải tự
mình sống đúng chân lý, nếu không thì muôn đời vẫn như lão ăn xin với con cá rô
cây vô vị.
2.
BUÔN BÁN
Mỗi
ngày hai thời kinh, không lần nào Sư vắng mặt, dù khi mưa gió, nóng bức, khi
tụng cùng chúng hay lễ một mình.
Trong
Thiền viện có vị Tăng ưa thích phóng khoáng, bất chấp nghi lễ, rất ít tụng kinh
niệm Phật. Một hôm gặp Sư, vị Tăng nói:
-
Được lợi ích gì mà Thầy tụng kinh hoài vậy?
Sư
đáp:
-
Lại thêm một gã Thầy chùa buôn bán!
۞
Lời
góp ý:
Con
người thật khó thoát được vòng luẩn quẩn của nhân quả nghiệp báo. Trong mỗi
hành vi của họ đều phải hàm chứa nhân và quả, nghĩa là hàm chứa bản ngã, thời
gian, luân hồi, sinh tử. Vị Tăng kia phải tính toán cái gì có lợi mới làm, thế
là rơi vào sinh tử, không biết rằng đó chỉ là cái lợi nhỏ nhen của tính toán tư
kiến tư dục, chút bọt bèo trong trùng trùng đợt sống sinh diệt cuốn phăng! Chỉ
vì vị Tăng ấy còn mê, không thấy được Pháp thực tại hiện tiền, vượt khỏi thời
gian. Nếu thấy được thì người sống Đạo chẳng cần tính toán chút ít lợi riêng,
vì mỗi Pháp tự nó đã là cái dụng vô cùng. Thể - Tướng --Dụng của đạo vốn viên
mãn, sao lại còn tính toán thiệt hơn? Người tránh cái hại đi tìm cái lợi nhỏ
nhen sao bằng tâm địa viên dung vô ngại bất khả tư nghị, dù lợi hay hại vẫn tự
tại an nhiên?
Người như thế Lão Tử khen là “vô vi nhi vô bất vi”.
Đã vô vi thì làm gì mà không lợi (vô vi nhi vô bất trị). Thế mới biết tâm địa
các bậc A - La - Hán đã vô vi (asankhàrà) nên nhất động nhất tịnh đều đã trọn
vẹn nơi chỗ Đại Dụng của Đạo (mà Lão Tử gọi là Đức), đâu còn cần cái vị tha hữu
hạn của bản ngã. Chỗ Đại Lợi của các Ngài là chúng sanh đều được hưởng mà không
hề hay biết. Như mặt trời chiếu soi, không vị kỷ, không vị tha, không vị lợi mà
muôn loài được lợi.
Vị
Thiền Sư mỗi ngày tụng kinh, lễ
Phật, bỏ ra ngoài lợi hại thế gian, đối với chúng sanh dường như là ích kỷ, nên
lý trí của vị phàm tăng làm sao luận tới! ông ta chỉ lăng xăng trong cái gọi là
lợi kỷ - lợi tha, đúng như là... “gã Thầy chùa buôn bán”.
3.
MỌT SÁCH
Sư
đang giảng trước thính chúng. Có gã thanh niên đứng dậy hét:
-
Xưa Lâm Tế chỉ với một tiếng hét đủ khai được Đạo lớn, đâu cần lắm lời như vậy?
Sư
hét. Gã thanh niên chịu không nổi tiếng hét quá lớn giật mình thối lui.
Sư
nói:
-
Tưởng đâu con cháu Lâm Tế, té ra chỉ là loài mọt sách!
۞
Lời
góp ý:
Hét,
đánh hay dụng ngữ đều chỉ là phương tiện, vấn đề là ở chỗ phương tiện đó có như
ngón tay chỉ được mặt trăng hay không mà thôi. Còn đã là phương tiện thì cứ tùy
nghi mà sử dụng. Người dùng biết tùy cơ mà khai thị được chân lý mới là phương
tiện thiện xảo. Bằng không lấy phương tiện này bỏ phương tiện kia chỉ là trò
chấp trước.
Gã thanh niên cho rằng thiền thì phải
“bất lập văn tự”
nên phải hét chứ không được nói, không biết rằng hét cũng chỉ là một loại ngôn
ngữ, hơn nữa, anh chỉ biết tiếng hét qua sách vở văn tự mà thôi, chứ anh có bao
giờ được chính tai nghe tiếng hét của Thiền Sư Lâm Tế ra làm sao đâu? Và anh có
bao giờ biết rằng Lâm Tế
hét mà
trong tiếng
hét hoàn
toàn im lặng không?
Trong “bất lập văn tự”
thì văn tự không sai mà “lập”mới sai, cũng như trong “tri kiến lập tri”
thì tri kiến có thể là Phật tri kiến, Thánh tri kiến, Chánh tri kiến
v.v... chỉ có
“lập tri”
mới đích thực là ”vô minh bổn”.
Đúng
là đối với người giác ngộ thì vạn pháp đều chân, đối với người mê thì muôn sai
đều vọng, có chấp cái này bỏ cái kia thì mê vẫn hoàn mê, vọng còn nguyên vọng.
4.
NÓI ĐƯỢC MỘT LỜI
Một
thiền khách đến viếng Sư, cứ nằng nặc đòi Sư giải thích yếu nghĩa Nam Tuyền
Trảm Miêu.
Sư
im lặng rót trà mời khách, nhưng khách dường như không để ý đến trà, lại hỏi:
-
Nam Tuyền trảm miêu sao không ai nói được lời gì?
Sư
toan bưng chén trà đổ đi. Khách nói:
-
Xin Thầy để tôi uống.
Sư
cười nói:
-
Cuối cùng ông cũng nói được một lời. Nếu hồi đó có người nói được như ông thì
Nam Tuyền đã khỏi mắc sát giới.
۞
Lời
góp ý:
Đông
đường, Tây đường tranh nhau con mèo, Thiền Sư
Nam
Tuyền thấy thế bắt mèo đưa lên nói:
-
Nói được là cứu con mèo, nói không được thì chém nó.
Thiền
chúng không ai nói được, Sư liền chém con mèo.
Tùng
Thẩm về. Sư đem câu nói đó hỏi. Tùng Thẩm cởi giày để lên đầu đi ra. Sư nói:
-
Nếu hồi nãy có ngươi thì con mèo đã được cứu rồi.
Câu
chuyện đó vẫn còn là một nghi vấn đời này sang đời khác trong nhà thiền. Ai
cũng muốn tìm ra yếu nghĩa vì sao
Nam
Tuyền lại giết mèo.
Nhưng Đạo
đâu thể dùng lý trí mà nghi vấn nên càng nghi vấn càng xa. Vấn đáp cơ phong chỉ
để trắc nghiệm xem người thiền có đang “cước căn điểm địa” không mà
thôi. Nếu đã “điểm địa” thì không đâu không phải là Đạo, bằng không thì
lý trí đành hoang mang ngơ ngác chẳng thể nào nói được một lời khế hợp. Còn một
khi đã khế hợp thì im lặng hay nói bất cứ điều gì cũng đều khế hợp.
Thế
còn Tùng Thẩm đội giày lên đầu thì sao, nói đi?
5.
THỂ NHẬP PHÁP GIỚI
Một
vị Tăng yết kiến Sư, Tăng hỏi:
-Thể
nhập cùng pháp giới làm một có được
chăng?
Sư
nói:
-
Chứ
ông tưởng pháp
giới với ông là hai được sao?
۞
Lời
góp ý:
Pháp
giới tánh chưa một lần loại trừ ai, chưa bao giờ tự phân hóa, chỉ có bản ngã tự
tách rời pháp giới như chân, tự cô lập, tự khép kín, tự cách ngăn, tự buộc
ràng, tự giới hạn,... Nhưng có tách rời được không? Không, vì bản ngã chỉ là ảo
tưởng, chỉ là huyễn mộng. Thế thì có thể nhập được không? Cũng không, vì ý niệm
thể nhập cũng là ảo tưởng của vọng ngã. Pháp giới tánh đâu phải là cái
ngã được phóng đại (đại ngã) như người nằm mộng lại còn thêm mộng (mộng trung
chi mộng)!
Người
nằm mộng thấy mình đi chơi, suốt cơn mộng khổ khổ, vui vui, thương thương, ghét
ghét, sợ sợ, lo lo, khi nơi này, lúc chỗ nọ,... nhưng khi tỉnh dậy thấy mình
vẫn ở trên giường chẳng hề sai khác.
Đối
với bản ngã mê vọng thì pháp giới tánh mà hắn muốn thể nhập cũng là mê vọng.
Còn pháp giới chân thật thì
chỉ
khi nào hết mê mới thấy
được chẳng hai.
Khi
mê nói một nói hai
Chừng khi tỉnh mộng cười dài một phen.
6.
HỌC ĐẠO
Một
thiền sinh đến xin học đạo. Sư hỏi:
-
Ngươi định học đạo bằng tâm hay bằng trí?
Thường
nghe kinh điển nói rằng đừng đem trí phân biệt mà học đạo nên thiền sinh thưa:
-
Dạ bằng tâm.
Sư
nói:
-
Không được.
Hôm
sau thiền sinh lại đến, hỏi Sư:
-
Vậy Thầy học đạo bằng tâm hay bằng trí?
Lúc
đó Sư đang ăn táo, gọi:
-
Này!
Thiền
sinh nhìn lên. Sư đưa trái táo.
Thiền
sinh vừa đón lấy, Sư hỏi:
-
Bằng tâm hay bằng trí?
۞
Lời
góp ý:
Đạo
chẳng thể học bằng thân, bằng tâm hay bằng trí. Chiếc xe chạy không thể chạy
bằng tay lái, bằng bánh, bằng khung,... hay bằng người lái. Không thể tách
riêng cái toàn thể rồi chỉ ngộ một phần là đủ, vì chỉ có giác ngộ trong sự
tương giao (tâm lý, sinh lý, vật lý, nội và ngoại) chứ không thể giác ngộ cá
biệt, đơn phương hay phiến diện.
Ngộ tánh ngộ tâm ư? Sao lại tách rời thân với
tâm, tánh với tướng, thể với dụng? Không có ngộ chung cũng chẳng có
ngộ riêng, nên Đức Phật đã dạy “không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng”. Và Ngài dạy tiếp: “Kẻ nào
không còn thấy có bên này, bên kia và cả hai, người ấy thoát ly
phiền não, Như Lai gọi đó là Phạm Chí” (Dh. 385).
Vậy
ngộ thì phải “ngộ nguyên con”, hồc là “không chấp thủ bất cứ điều gì ở
đời” (Sabbe dhammà nàlam abhinivasaya).
Lấy trái táo còn phải lấy “nguyên con”
huống chi là học đạo .
7.
DIỆU GIÁC
Một
vị Tăng đến tham vấn, thấy Sư đang làm vườn, hỏi:
-
Nghĩ thì gặp sở tri chướng, làm thì gặp phiền não chướng, vậy như thế nào mới
đạt được an lạc của Diệu Giác?
Sư
chống cuốc ngâm bài kệ:
- Ta không biết đâu suối nguồn An Lạc
Sáng sớm ra vườn bón đậu trồng dưa.
Ta không biết đâu bến bờ Diệu Giác
Đúng ngọ về chùa cất cuốc ăn trưa.
۞
Lời
góp ý:
Diệu
Giác không phải là lý tưởng để “nghĩ về”. Nghĩ về là sở tri, nên dù nghĩ về
Diệu Giác cũng là sở tri chướng.
An
Lạc không phải là mục đích để “nắm bắt”. Nắm bắt là sở đắc, nên dù nắm bắt an
lạc cũng là phiền não chướng.
Tìm
An Lạc và Diệu Giác ở đâu đó trong hay ngoài thế gian cũng đều là tìm lông rùa
sừng thỏ.
Nghe
nói Đạo là Xuất Thế thì người ta cứ lăng xăng hướng ra ngoài thế gian mà tìm
kiếm.
Nghe
nói Đạo là Nhập Thế thì người ta lại lặn lội hướng vào trong thế gian mà tầm
cầu.
Đạo
không trong không ngoài, chẳng có chẳng không, nhưng:
Lặng
lặng không đâu mà chẳng có
Loay
hoay chẳng có ở nơi đâu!
Thôi
thì cứ theo Thiền Sư sáng sớm ra vườn bón đậu trồng dưa, chừng nào nghe bảng
hiệu về chùa mà độ ngọ, chớ có mất công lý giải An Lạc với Diệu Giác làm gì cho
phí một đời cơm áo.
8.
LOẠN THỊ
Nhiều
người than phiền Đạo Phật có quá nhiều tông phái, mà tông phái nào cũng cho
mình là đệ nhất. Chân lý chỉ có một, vậy ai đúng ai sai?
Được
hỏi vấn đề này, Sư nói:
-
Tùy độ loạn thị mà đeo kính. Kính nào cũng đệ nhất khi hợp với độ loạn thị chứ
sao!
۞
Lời
góp ý:
Chúng
sanh có “nhiều bụi trong mắt” nên nhìn cái gì cũng thành méo mó. Nói “tướng”
thì thành “tướng vọng”, nói “tánh” thì thành “tánh huyễn”, nói “ta” thì thành
”ngã thủ”, nói “pháp” thì thành “pháp chấp”. Thế rồi luận tánh, luận tướng, nói
ngã, nói pháp mà trở thành... loạn
thị.
Mắt
đã loạn thị thì cần phải đeo kính Chánh Kiến mới thấy được thực tướng. Thế là
các tông phái khéo “tiếp thị” đã cho tung ra kính loạn thị đủ kích đủ cỡ, đủ
loại model. Thiên hạ đua nhau sắm kính, các “tiệm kính” bán đắt như tôm tươi.
Ai
mua được kính “hợp mắt” thì đều
cho là đệ nhất. Thậm chí có người đeo phải kính giả thấy trời đất muôn màu muôn
sắc rất ư là huyền bí, liền cho là kính tối thượng. Mà kính “của ta” bao giờ
lại chẳng hơn thiên hạ!
Nhưng
coi chừng, dù kính giả kính thật, thì cũng phải lo lấy bụi trong mắt, phải chữa
tận gốc loạn thị, hãy tin vào mắt thật của mình đừng nghe các “chủ tiệm” quảng
cáo. Nếu không, kính có ngày cũng hết “đát” hoặc rủi ro mất mát hư hao thì rồi
loạn thị vẫn hoàn loạn thị!
9.
SỬA ĐỔI THIÊN NHIÊN
Ngồi
dưới cây bồ đề, một chú tiểu nhận xét:
-
Thiên nhiên có những điều bất cân xứng cần phải sửa chữa lại.
Chú
tiểu khác hỏi:
-
Thí dụ cái gì bất cân xứng?
-
Thì chú thấy đó, bên kia cây dưa hấu nhỏ như vậy mà trái thật to, còn cây bồ đề
to tướng thế này mà trái nhỏ xíu!
Ngay
khi đó gió thổi rụng những trái bồ đề trên đầu họ. Chú tiểu kia nói:
-
May mà chú chưa kịp sửa thiên nhiên, chứ không thì bể đầu cả đám!
۞
Lời
góp ý:
Người
mê tự sinh ra cho mình cái bản ngã, thế rồi từ khi lên ngôi, bản ngã bắt đầu ra
tay. Trước hết bắt những người xung quanh phải tuân theo “mệnh lệnh của tôi”,
sau được đà, bắt luôn moi sự moi vật phải thay đổi cho đúng với “ý muốn của
tôi”. Thế là một cuộc đảo chính quy luật tự nhiên cứ thế mà tiến hành!
Chân
con vịt ngắn hãy mau dài ra! Cổ con cò cao hãy mau ngắn lại! Phải khổ luyện sao
để bay được như chim! Phải tu trí sao cho lặn được như cá!...
Con
người cảm thấy mình đã tiến bộ rất xa: bản ngã bành trướng, quốc gia bành
trướng, chinh phục hành tinh, điều hành vũ trụ,... Hoặc là khí công thượng
thừa, yoga tuyệt đỉnh, định lực phi phàm v.v...
Vâng,
cứ sửa đổi nữa đi cho ra muôn hình vạn trạng, thỏa chí bình sinh. Nhưng bản ngã
ơi, ngươi có khi nào thấy rằng cái gốc của ngươi thì vẫn chưa thay đổi được
chút nào hay không?
10.
TINH TẤN HAY LÀM BIẾNG
Một
vị Tăng luyện được phép thần thông có thể ngồi trên mây đi đây đi đó tùy ý. Ông
cố gắng thuyết phục người bạn:
-
Hãy luyện pháp môn này, thành công rồi thì thật là diệu dụng.
Người
bạn hỏi:
-
Diệu dụng gì?
-
Ấy, lúc đó bạn có thể bay đi đây đó dễ dàng mà không một chút mệt nhọc.
-
Ủa, vậy ra tinh tấn chỉ để được làm
biếng hay sao?
۞
Lời
góp ý:
Người
ta không biết rằng ai cũng có sẵn thần thông diệu dụng, nên cứ mãi lo đi tìm
diệu dụng thần thông, không hề quan tâm sử dụng kho tàng khả năng quý báu của
mình.
Khi
bại liệt mới biết chân đi là thần thông, khi nhắm mắt mới hay cái nhìn là diệu
dụng. Chỉ riêng bàn tay của con người đã đa năng đến nỗi chưa robot điện tử nào
thực hiện được khả năng tương tự. Người ta chưa khám phá hết tiềm năng của con
người đã vội muốn thành tiên, cũng như chưa hiểu hết trái đất đã mong chinh
phục các vì sao. Đó là bệnh “đứng núi này trông sang núi nọ”.
Quyền
năng đó là một trong những khuynh hướng tính dục của bản ngã. Những người cố
gắng tao luyện thần thông, nói là để có phương tiện độ đời, trên thực tế chỉ là
vị ngã. Nếu đã giác ngộ thì mọi phương tiện sẵn có đều là thần thông diệu dụng,
chẳng cần thêm bớt, chẳng cần lấy bỏ. Hét, đánh, bửa củi, gánh nước, đi đứng,
nằm ngồi,... há chẳng phải là phương
tiện độ đời thiện
xảo
của các vị Thiền Sư đó
sao?
11.
NGOÀI DA
Gặp
một vị Tăng nổi tiếng về thiền định, Sư hỏi:
-
Tu như
vậy ông được gì?
Vị
Tăng thưa:
-
Tâm tôi đã lặng lẽ.
-
Thế thì ông chỉ được ngoài da!
-
Vậy phải làm sao để được thành chánh quả?
-
Ấy, ông lại tính chuyện ngoài da nữa!
۞
Lời
góp ý:
Người
tu hành cứ loay hoay đi tìm một cái gì đó để đạt đến, vì
chưa thấy ra “xương tủy” của mình. Pháp vốn biến hóa vô cùng, tâm giác ngộ cũng
phải vô cùng biến hóa mới có thể hài hòa với nhịp sống linh động hồn nhiên.
Tịnh
hay động cũng là phiến diện. Không ai có thể động không mà chẳng tịnh, cũng
không ai có thể tịnh không mà chẳng động. Nắm cái này bỏ cái kia, suốt đời lăng
xăng qua lại nên chẳng có lấy một phút giây an ổn trong sáng thì làm sao có thể
tự tại hồn nhiên “hòa kỳ quang, đồng kỳ trần” cho được?
Hễ
mở miệng nói câu “làm sao để được” là còn xa ngàn dặm mất rồi.
Làm sao để được thành chánh quả
Cứ loay hoay tính chuyện ngoài da
Nơi sinh tử muôn đời phước họa
Sao chẳng dừng ngàn dặm bôn ba?
12.
QUẢ NGÃ MẠN
Sư
không ăn chay. Một tín đồ không phục nên không chịu đảnh lễ.
Sư
nói:
-
Chỉ mới một bụng rau cải mà ngã mạn như thế, huống nữa đắc quả thì ngã mạn đến
chừng nào!
۞
Lời
góp ý:
Pháp
môn tu nào cũng chỉ là phương tiện, có giá trị như phương thuốc chữa bịnh, ai
có bịnh thì dùng, ai không bịnh thì thôi. Người tu pháp môn này, kẻ tu pháp môn
khác, đó là vì tùy bịnh mà chữa. Không phải ai không
tu pháp môn của mình đều
là sai cả.
Người
mắc bịnh phải uống thuốc, cần uống đúng giờ giấc liều lượng và chừng nào hết
bịnh thì thôi, uống hoài chỉ sinh bịnh khác.
Uống
thuốc là việc bất đắc dĩ, chẳng có gì đáng hãnh diện với phương thuốc này hay
phương thuốc nọ. đáng lẽ phải thẹn vì phải uống thuốc thì đúng hơn. Cũng như
người ghiền thuốc lá, khi muốn bỏ phải dùng kẹo để cai, khi bỏ được cũng chẳng
hơn chi người không hút, huống hồ là kiêu căng với thứ kẹo để cai. Hoặc bỏ
thuốc rồi ghiền kẹo thì đúng là “đoạn trừ phiền não trùng tăng bịnh”.
Pháp
môn tu là thuốc chữa bịnh phiền não, trong phiền não, ngã mạn là bịnh lớn, chữa
phiền não sao lại để ngã mạn lớn hơn? Cho nên Kinh dạy: “Pháp như người đưa
thuyền qua sông, pháp còn phải bỏ huống là phi pháp”.
|