49.
TRÀ TỲ
Dù
đã đi theo thiền, một thiền sinh vẫn còn đầy ắp kiến giải về các
luận A Tỳ đàm, Duy Thức, Trung Quán và triết học Đông
Tây.
Sư
nói:
-
Con có biết không, trình tự sa đọa của con người là từ không còn khả
năng sống với đạo mới đưa đến đạo lý. Từ không trực nhận đạo lý mới
đưa đến triết lý. Từ không hiểu triết lý đưa đến triết học. Khi
những hệ thống triết học được
hình thành thì sự sống đạo cũng bị... trà
tỳ!
۞
Lời
góp ý:
Kết luận thì đã không còn là
chân lý, huống chi lặp lại những kết luận thì chẳng khác người mù sờ
voi. Người mù sờ voi còn có chỗ đúng, kẻ lặp lại ngôn ngữ nói về
chân lý thì hoàn toàn mò trăng đáy biển.
Người
giác ngộ hồn nhiên sống đạo, nhưng vì người mê mà nói đạo lý. đáng
lẽ nương đạo lý để thấy đạo, người mê lại học được đôi ba điều rồi
ba hoa triết lý. Nhưng triết lý vẫn còn là những suy luận mơ hồ chưa
có gì xác định. Người mê sau lại phân tích, lý giải, phê phán, hệ
thống hóa triết lý bằng thế trí biện tài mà thành ra triết học với
những giả thiết, định đề, định luật, hệ luận, phương pháp,... rất ư
là logic, để đo lường chân lý trong những kết luận thật sắc bén vững
vàng như đinh đóng cột. Tưởng đã nắm đạo trong tay, hóa ra chỉ là
đạo giấy.
Bịnh
này, ngoài Phật, may ra theo Lão Tử mà
“tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần” mới mong “huyền đồng” mà trở về với Đạo.
An nhiên tâm lặng lẽ
Sáng suốt tuệ nhật soi
Nói Đạo còn xa Đạo
Huống kẻ mù sờ voi!
50.
THIỀN ĐỊNH LÂU NHẤT
Sư
hỏi các đệ tử:
-
Trong các con, ai hành thiền định lâu nhất?
Các
đệ tử lần lượt thưa:
-
Con nhập định một giờ.
-
Con nhập định hai giờ.
-
Con nhập định một ngày.
-
Con nhập định năm ngày.
-
Con nhập định bảy ngày.
Cuối
cùng, một người đệ tử thưa:
-
Thưa Thầy, con không biết con nhập bao lâu, chỉ biết là con đang thở
từng hơi thở mà thôi.
Sư
mừng rỡ nói:
-
Thế mà con thiền định lâu nhất đó.
۞
Lời
góp ý:
Thiền
định lâu nhất cũng còn xuất nhập, nên thiền định không phải là cứu
cánh của Đạo Phật. Cao nhất của thiền định là cõi Sắc Giới và Vô
Sắc Giới mà thôi.
Tuy
nhiên, Đạo Phật không loại trừ thiền định, vì nếu sử dụng thiền định
mà không dừng lại nơi thiền định, không xem thiền định là tối hậu mà
chỉ tạm thời thoát khỏi sự chi phối đa đoan phiền nhiễu của cõi dục
thì rất tốt. Vì vậy, thiền định vẫn được coi là hiện tại lạc trụ của
các bậc Thánh (Ariyassa ditthadhamma-sukha
vihàra).
Thiền
Tuệ cũng không loại trừ thiền định, vì trong tuệ luôn luôn có định.
Hơn nữa, thiền tông nói rằng đói ăn, khát uống, mệt nghỉ, thì sao
lại không thiền định một chút cho khí dưỡng thần
tồn?
Nhưng
khi thiền định được rồi thì người ta thường ham mê hỷ lạc, do đó,
đáng lẽ thiền định là quên thời gian, thì người ham mê thiền định
lại tính thời gian để đó lường định lực.
Định
lực không ở thời gian, mà ở chỗ bất loạn. Nếu trong từng hơi thở mà
tâm bất loạn, quên hết thời gian thì sát-na định (khanika-samàdhi)
lại chính là đại định (mahà-samàdhi).
51.
VÃNG SINH
Người
theo phái Tịnh độ tin rằng niệm Phật A Di đà sẽ được vãng sinh Tây
Phương Cực Lạc, còn người theo Nam Tông thì niệm Araham là danh hiệu
đầu tiên của Phật và cũng là quả Thánh tối cao trong hàng Tứ
Thánh.
Một
hôm, có người hỏi Sư:
-
Thưa Thầy, không biết về sau con có được vãng sinh Tây Phương Cực
Lạc không?
Sư
hỏi:
-
Anh niệm danh hiệu nào?
-
Dạ, Araham.
Sư
nói:
-
Araham là vô sinh sao anh lại cầu vãng sinh?
۞
Lời
góp ý:
Mục
đích người tu Phật, kể cả bậc Đại Bồ Tát, đều là thoát lý luân hồi
sinh tử, liễu ngộ tự tánh (Niết Bàn). Không luân hồi sinh tử tức tự
tánh vô sinh diệt (A-la-hán).
Danh
hiệu A-la-hán và A Di đà hoàn toàn đồng nghĩa. Một bên là chỉ thẳng
tự tánh vô sinh diệt (A-la-hán) cho căn cơ trí tuệ, một bên là nhân
cách hóa thành một vị Phật (A Di đà) cho căn cơ đức
tin.
A-la-hán
có ba đức:
Minh cụ túc (Vijjà sampanno), Vô sinh diệt(Ajàtàmato) và Thanh tịnh vô nhiễm (Nikkilesa visuddho).
A
Di đà cũng có ba nghĩa:
Vô lượng quang tức Minh cụ túc, Vô lượng thọtức Vô sinh diệt và Tịnh độ bản tâm tức Thanh tịnh vô nhiễm. Vậy A-la-hán và A Di đà chỉ là
một.
Người
niệm Phật A Di đà tuy nguyện vãng sinh, nhưng thực ra mục đích cũng
vẫn là vô sinh
(Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh). Do đó, “Nhất cụ Di đà vô
biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây phương”nghĩa là, khi đã nhất tâm bất loạn thì đến cõi Tịnh độ mà không cần tốn một sát-na, bởi vì “tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh”
thì ở đâu cũng là Tây Phương Cực Lạc,khỏi phải vãng sinh Tịnh độ.
Hơn
nữa, “tự
tánh Di Đà duy tâm tịnh độ” thì chỉ cần ngộ tánh vô sinh, giác tâm vô nhiễm tức đã là cõi Di Đà tịnh độ rồi.
A-la-hán
và A Di Đà chính là tự tánh vô sinh. Vì thế, niệm A-la-hán hay niệm
A Di Đà đâu phải cầu vãng sinh mà chính là vô sinh
vậy.
52.
THỰC SỰ HÀNH
Nhiều
học giả cho rằng môn A-tỳ-đàm (Abhidhamma) tức Vi Diệu Pháp hoặc Thắng Pháp là môn học cao siêu hơn cả Duy Thức
Luận, nên họ còn gọi là môn Siêu Lý Học.
Sư
nói với một học giả Siêu Lý:
-
Ta có một môn hơn xa Siêu Lý Học, nhờ đó mà có thể biến hóa vô cùng,
dung thông vạn pháp.
-
Đó là môn gì mà siêu dữ vậy?
Sư
nói:
-
Không phải siêu mà là thực, vì đó là môn Thực Sự Hành.
۞
Lời
góp ý:
Siêu
Lý Học là tên gọi khác của môn học lấy Diệu Pháp Tạng (Abhidhamma
Pitaka) làm đối tượng nghiên cứu. Chủ đề của Diệu Pháp là Tâm, Tâm
Sở, Sắc và Niết Bàn.
Tâm
hợp với Tâm Sở và Sắc tạo ra tâm giới, đồng thời cũng chính Tâm
chứng ngộ Niết Bàn. Đó là nguyên lý tổng quát đã được mô tả và phân
tích kỹ lưỡng trong môn Siêu Lý Học.
Nhưng
pháp học chỉ là phương tiện để thấy ra pháp hành. Thấy pháp hành
chưa đủ mà còn phải thực sự hành nữa mới được. Nếu không, người học
pháp có thể rơi vào hai sai lầm:
1)
Quá say mê pháp học để tích lũy sở tri, không ngờ chính sở tri vay
mượn quá chi ly manh mún là trở ngại lớn lao cho việc hành
trí.
2)
Quá tin vào những công thức tạm lập (để diễn tả cho dễ hiểu) rồi đem
ra áp dụng một cách máy móc không sáng tạo mà cho là tu. Có thể
những công thức được mô tả đúng đắn, nhưng dầu sao cũng không có
công thức nào phô diễn được trọn vẹn chân lý vốn rất linh động khó
lường. Chưa kể qua lý trí vọng thức của người học, công thức đã được
tiếp thu một cách méo mó. Công thức là phương tiện diễn đạt sự thật
mà đã bị méo mó thì sự thật làm sao thấy được, nên khi đem ra áp
dụng tưởng là thực hành chánh pháp, hóa ra chỉ thực hành tà
đạo!
Người
học giáo pháp đúng hướng phải biết “được
ý quên lời”, phải biết nhìn vào sự thật chứ đừng nhìn vào công thức. Ví dụ, đừng phân tích tâm qua “công thức lộ trình tâm”, mà qua
chính sự diễn biến đang xảy ra một cách sống động nơi tâm mình. Có thể lúc đầu
ta không thấy được tâm như công thức gợi ý, nhưng về sau lại thấy vi tế hơn
công thức diễn tả rất nhiều.
Đừng
đem công thức áp dụng lên thực tại, trước khi muốn nhìn thực tại
phải biết vất bỏ công thức đi. Vì thực hành là trực tiếp thể nghiệm
chân lý chứ không phải mô phỏng, áp dụng hay so sánh công thức với
chân lý. Từ chân lý, bậc Giác Ngộ nói ra lời để chỉ bày chân lý,
mượn lời để nhìn thẳng vào sự thật được chỉ bày chứ không phải đem
lời áp đặt lên chân lý. Chân lý là sự sống nên chỉ có thể sống chứ
không thể áp dụng. Ap dụng tức áp đặt một khuôn mẫu đã có trước lên
trên thực tại đang là, trong khi thực tại đó chính là sự sống luôn
luôn linh động và mới mẻ, chỉ có một trí tuệ sâu lắng bất động
(acalà gambhìtà pannà) mới có thể hội nhập. Trí tuệ đó hoàn toàn
trong sáng (visuddhanana), hoàn toàn ngược lại với dòng thác lý trí
vọng thức (anoghanìyà pannà).
Vậy
phải biết quên đi bài học về Siêu Lý kinh điển để thể hội bài học
Siêu Lý trên thực tại hiện tiền luôn luôn sinh động mới mẻ. Đó chính là thực sự hành vậy.
53.
NIẾT BÀN
Một
thiền sinh tự cho mình là đã suốt thông kinh tạng, chỉ còn tinh tấn
hành trí là sẽ đạt được Niết Bàn. Nhưng anh hành đến sốt ruột cũng
chưa thấy Niết Bàn đâu. Anh bèn đến cầu kiến
Sư:
-
Lý sự con đều đã trải qua mà vẫn chưa được Niết Bàn, bây giờ phải
làm sao?
Sư
nói:
-
Niết Bàn là tịch tịnh (santi), là nguội lạnh (sìta) mà
ngươi nôn nóng như thế làm sao đạt được?
۞
Lời
góp ý:
Ai đi tìm Niết Bàn? Nếu bản
ngã đi tìm Niết Bàn thì Niết Bàn chỉ là ảo tưởng của bản
ngã.
Ai
đạt đến Niết Bàn? Nếu bản ngã có đến ngồi chễm chệ trên Niết Bàn thì
bản ngã vẫn là bản ngã chứ không bao giờ Niết Bàn
được.
Còn
đi tìm Niết Bàn... tức chưa biết Niết Bàn là gì và ở đâu. Vậy không
bao giờ tìm được Niết Bàn, vì dù có gặp thì làm sao biết đó là Niết
Bàn?
Còn
đạt đến Niết Bàn tức chưa phải Niết Bàn, vì Niết Bàn không phải là
nơi (cõi giới) để đi để đến. đến đi tức nhân quả, thời gian và sinh
tử.
Niết
Bàn không phải là trạng thái lý tưởng, dù là hư vô, ngoan không hay
thường - lạc - ngã - tịnh, vì
trạng thái lý tưởng chỉ là phóng ảnh của vô minh
ái dục.
Niết
Bàn không đoạn nên chẳng thường, không khổ nên chẳng lạc, không năng
sở nên chẳng ngã pháp, không dơ nên chẳng tịnh, chớ có mưu toan tô
son vẽ phấn.
Niết
Bàn cũng không phải là kết quả của một quá trình tu luyện, vì tu
luyện chỉ đến sở đắc. Còn sở đắc là còn được còn mất, còn thành còn
bại. Sở đắc có sinh nên sở đắc có diệt. Niết Bàn không sinh nên Niết
Bàn không diệt. Chớ có manh tâm chiếm đoạt Niết
Bàn.
Xưa
có gã nằm mơ thấy mình giàu sang phú quý, danh vọng tột bực, hạnh
phúc tuyệt đỉnh. Thế rồi vật đổi sao dời, một ngày kia bỗng nhiên
tán gia bại sản, thân bại danh liệt, khốn khổ tận cùng. Trong khi
đang bị tù tội tra khảo, gã mơ tưởng đến một viễn ảnh tự do và ngày
đêm tìm phương vượt ngục. Kiên trí đào hang khóet lỗ, một hôm gã
cũng thoát được ra ngoài, thấy mình thật là tự do thoải mái. Nhưng
đi chưa được bao lâu, gã lại thấy trước mắt tường kín rào cao trùng
trùng điệp điệp... Giật mình thức dậy thì tất cả thành bại, được
mất, hơn thua, vui khổ đều bỗng tiêu tan, bấy giờ gã mới thở phào
nhẹ nhõm.
Bản
ngã, vô minh, ái dục, khổ vui v.v... đều toàn là mộng. Cho nên, với
những người đang nằm mơ, Đức Phật không đưa ra thêm một “Niết Bàn
trong mộng”, Ngài chỉ giúp họ tỉnh giấc thì tất cả mộng mơ đều tự
tiêu tan. Đó là lý do vì sao Ngài Sàriputta trả lời du sĩ ngoại đạo
Jambukhàdaka:
“Này hiền giả! Đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si là Niết Bàn”.
Và khi nói Niết Bàn là tịch tịnh, thanh lương cũng đồng một nghĩa: mộng mị
tiêu tan thở phào nhẹ
nhõm vậy.
54.
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
Một
thiền sinh hỏi:
-
Thưa Thầy, theo Mật Tông, Đức Chuẩn Đề có ngàn tay ngàn mắt là ý
nghĩa gì?
Sư
nói:
-
Ngươi cũng có ngàn tay ngàn mắt nhưng chưa vô ngại đại bi đó
thôi.
-
Làm sao con có ngàn tay ngàn mắt được?
-
Sao lại không? Nóng lạnh, đói no, vui buồn, mừng giận, đẹp xấu, dở
hay, phải trái,... cho đến ngàn chuyện ngươi đều biết, đó không phải
ngươi có ngàn mắt hay sao? Lại còn làm lụng, đi đứng, ăn ngủ, nói
năng, suy tính, tạo tác, động tịnh,... cho đến ngàn việc ngươi đều
làm được, đó không phải ngàn tay là gì?
۞
Lời
góp ý:
Nói
đến Đạo là người ta mơ đến một cái gì siêu việt. Cái gì gợi lên trí
tưởng tượng càng phong mới càng cao siêu mầu
nhiệm.
Thế
mà một quy luật có vẻ nghịch lý nhưng rất hiển nhiên, đó là, càng mơ
cái huyền nhiệm phi thường lại càng tầm thường cạn cợt. Ngược lại,
càng sống giản dị, bình thường, lại càng thâm sâu uyên
áo.
Cho
nên, Lão Tử nói:
“Trí giả nhược ngu, tình thâm nhược đạm”.
Sở
dĩ người ta
“hướng ngoại cầu huyền” là ví chưa thấy ra cái cao siêu mầu nhiệm trong cái nhỏ nhặt bình thường.
Người
ta đi đến một nơi đầy hứa hẹn, nhưng không thấy ý nghĩa tuyệt vời
của một bước đi. Người ta ăn qua loa cho xong bữa để tranh thủ đi
luyện thần thông pháp thuật, nên đâu thể biết rằng mỗi cái nhai là
thần thông, mỗi hạt cơm là diệu dụng.
Kinh
Thánh nói: “Mỗi
sợi tóc trên đầu rơi xuống đều là ý của Đức Chúa Trời”, nghĩa là mỗi sự việc diễn ra trên đời, dù nhỏ nhặt đến đâu, đều có ý nghĩa nhiệm
mầu của nó.
Vậy
mà người ta vẫn cứ loay hoay trèo non lặn suối đi tìm sự huyền bí
phi thường, không biết rằng “Thiên
địa giai bị ư ngã, phản thân nhi thành lạc mạc đại
yên”.
Nước Phật nằm trong hạt cát
Chúa Trời ngự khắp nơi nơi
Vạn pháp tiềm tàng Thái cực
Người xưa đâu phải nói chơi.
55.
BẮT CHƯỚC THIỀN SƯ
Nhiều
thiền sinh sau khi đọc hành trạng của các thiền sư cổ đức, mỗi người
tâm đắc hành trạng của một vị thiền sư nào đó và bắt chước y hệt
những gì ghi lại trong các ngữ lục.
Có
thiền sinh đưa lên một ngón tay, thiền sinh khác chỉ cây tùng trước
sân, có người toan chẻ tượng Phật, có người lại định giết cả mèo
v.v...
Sư
nói:
-
Các sách vở chỉ ghi chép một điểm nhỏ trong đời sống phong phú của
các thiền sư, các ngươi chỉ bắt chước được một điểm nhỏ đó thôi chứ
làm sao bắt chước được đời sống toàn diện của các Ngài. Chẳng lẽ các
Ngài suốt đời chỉ làm một chuyện đó thôi sao?
۞
Lời
góp ý:
Tu
không phải là tạo cho mình một phong cách độc đáo, bởi vì độc đáo
tới đâu cũng chỉ là quái thai của bản ngã, huống hồ chỉ bắt chước
phong cách của người, dù đó là tiên phong đạo cốt hay phong thái
thiền sư.
Nietzsche
nói: “Chẳng
thà làm thằng điên cho chính mình còn hơn làm bậc Thánh cho tư tưởng
của kẻ khác”.
Đạo
không thể mô phỏng hay bắt chước nơi Thánh nhân. Thuở xưa, các vị
đại Thánh Tăng chẳng có ai giống ai mà “mỗi
người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”. Các bậc thiền sư đạt đạo xưa nay cũng đều như vậy.
Cho
nên, suốt ngày hét đến đinh tai cũng không là Lâm Tế, trọn đời thiêu
hết Phật gỗ cũng chẳng phải Đơn Hà.
Lập
lại ngôn ngữ thiền sư coi chừng mắc bẫy, làm theo cử chỉ thiền sư
khéo kẻo bị lừa. Giống như người bắt chước vô vi của Lão tử, chính
là người hữu vi cực kỳ lộ liễu.
Phật
dạy:
“Người ngu biết mình ngu ấy là kẻ trí”, còn kẻ mê mà bắt chước người ngộ thì không biết mê đến cỡ nào.
Vì
vậy mà Tuệ Trung Thượng Sĩ thản nhiên nói:
“Phật là Phật, anh là anh, Phật chẳng cần làm anh, anh chẳng cần làm
Phật”.
Mới hay tự ngộ lấy
mình
Chớ nên bắt chước
chúng khinh bạn cười.
56.
CHUYỆN BỰC MÌNH
Đời
sống trong thiền viện không phải luôn luôn phẳng lặng như mặt nước
hồ thu. Thỉnh thoảng cũng có vài chuyện bất hòa. Hai thiền sinh nọ
bất đồng ý kiến về cách thể hiện kỷ luật. Một người thích nghiêm
minh, một người thì ưa phóng khoáng. Họ thường tranh luận với nhau
không ai chịu nhịn, vì vậy hay gây bực mình cho các thiền sinh
khác.
Trình
với Sư để xin hòa giải thì Sư chỉ cười không nói gì khiến họ càng bực mình thêm. Cuối
cùng, Sư nói:
-
Hai chú ấy bất hòa đâu phải cốt để các anh bực mình. Còn đã bực mình
thì chính các anh cũng đã bất hòa nói gì đến hòa giải ai
được!
۞
Lời
góp ý:
Chuyện
bực mình không xảy ra bên ngoài mà khởi lên trong tâm người... bực
mình! Chuyện xảy ra bên ngoài chỉ là duyên, phản ứng khởi lên bên
trong mới là nhân phiền não. Duyên là phụ, nhân mới chính. Nhưng khổ
thay, vì người ta cứ nhìn ra ngoài nên duyên trở thành chính, còn
nhân gây ra bao khổ não lại chẳng mấy khi thấy
được.
Người
ta có khuynh hướng giải quyết điều kiện bên ngoài, ít ai quan tâm
giải quyết tận nguồn nội tại.
Bên
ngoài là duyên nên cứ tùy duyên mà thuận. Thuận không phải là chạy
theo, mà chỉ cần không chống trái, không thủ
xả.
Đức
Phật dạy:
“Như núi đá kiên cố không bị gió lay, những lời khen chê không lay động bậc Đại
Trí”.
Kinh
Mangala Sutta cũng dạy:
Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng.
Kiên
cố không lay động không phải là cố chấp, hay đã có chủ trương khăng
khăng nhất định. Chính vì có chủ trương mà hai thiền sinh mới bất
đồng ý kiến. Chính vì có chủ trương mà hai chú tiểu cứ mãi cãi nhau
về phướn động hay gió động.
Ngài
Huệ Năng nói:
“Tâm các ông động”. Đó chính là “trực chỉ nhân tâm kiến tánh
thành Phật” vậy.
57.
KHÔNG CÓ ĐƯỜNG ĐẾN NIẾT BÀN
Ai
cũng biết mục đích tối hậu của Đạo Phật là Niết Bàn. Như vậy, chẳng
cần nghĩ bàn gì, người ta cứ việc khẳng định rằng Đạo Phật chính là
con đường đi đến Niết Bàn đó.
Nhưng
Sư lại nói:
-
Chẳng bao giờ có con đường đến Niết Bàn, chỉ có đường vào luân hồi
sinh tử mà thôi.
Các
thiền sinh rất lấy làm lạ, thắc mắc:
-
Như vậy, Đức Phật dạy Đạo để làm gì?
Sư
nói:
-
Đạo chỉ để xóa tan Tập đế, như ánh sáng xóa tan bóng tối chứ
đâu phải đường đến Niết Bàn. Ví như trong bóng tối anh không
tự nhìn thấy mình, đến khi thắp đèn lên mới thấy được mình. Như vậy,
anh không cần phải đi đâu mà tìm kiếm chính anh. Niết Bàn
cũng y như vậy.
۞
Lời
góp ý:
Không
phải hễ cứ gọi đạo thì tức là con đường. Con đường luôn luôn có khởi
điểm và có chỗ đến. Niết Bàn không phải là chỗ đến theo nghĩa một
địa điểm. Cho nên, không có đường đến Niết
Bàn.
Từ
Đạo
được dùng rất nhiều nghĩa:
Đạo
trong Lão Tử Đạo Đức Kinhlà chân lý rốt ráo. Đạo trong Thiên Chúa Giáo
là lẽ thật và sự sống đời đời.
Đạo trong Khổng Họclà cách xử thế tiếp vật, minh đức thân dân và chí thiện.
Đạo
dùng trong Đạo Đế có nghĩa là “sự thực hành nhằm vào khổ
diệt”(Dukkha-nirodha-gàminì-patipadà), hoặc Đạo trong Bát
Chánh Đạo được định nghĩa là “tiêu tan phiền não”(kilesemàrento). Nói theo Kinh Bát Nhãthì Đạo tức
là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”vậy.
Trong
tất cả các thuật ngữ Đạo nói trên, không có thuật ngữ nào chỉ con
đường có đi có đến cả. Đặc biệt trong Đạo Phật, Đạo chẳng liên hệ gì
đến Niết Bàn, vì không có
Đạo vẫn cứ có Niết Bàn. Nhưng không có Đạo thì không thể chứng ngộ Niết Bàn được.
Giống
như người đang nằm trên giường có ảo giác bị rơi vào khoảng không
không đáy, anh ta cảm thấy hụt hẫng và khiếp sợ. Chỉ cần ảo giác
tiêu tan (hoặc thấy đó chỉ là ảo giác) thì người ấy trước sau vẫn
nằm trên giường thoải mái bình yên. Niết Bàn cũng y như
vậy.
58.
ĐẠI BỊNH
Một
thiền sinh nọ tự cho mình là đã thấy tánh.
Sư hỏi:
-
Tự tánh ông thế nào?
Thiền
sinh khẳng định một cách rất tự tin:
-
Hoàn toàn rỗng rang thanh tịnh.
Sư
nói:
-
Đó là bịnh tưởng!
Thiền
sinh vô cùng tức giận, cho rằng chính thiền sư cũng không thấy được
chỗ thậm thâm vi diệu mà anh đã chứng ngộ, bèn cật
vấn:
-
Sao gọi là bịnh tưởng?
Sư
đáp:
-
Cổ đức dạy: “Tri tâm thanh tịnh thời bất sanh thanh tịnh tưởng”. Nay anh lấy cái tướng thanh tịnh làm tự tánh thì không
phải bịnh tưởng là gì.
Thiền
sinh nhất mực phản đối:
-
Đó là sự thật mà tôi chứng ngộ chứ đâu phải là tưởng
tượng.
Sư
than:
-
“Sự thật đó” chỉ là một trong muôn ngàn tướng của Pháp (tâm) mà lại
gán cho cái tên là tự tánh mới sinh ra bịnh tưởng, chứ còn giả tưởng
của tưởng tượng thì còn nói làm gì.
Nói
xong, Sư ngâm bài kệ của cổ đức:
“Thức đắc bổn tâm bổn tánh
Chính thị tông môn đại bịnh.”
۞
Lời
góp ý:
Bất
kỳ người ta khẳng định tự tánh là gì thì nó liền bị chụp cái mũ vọng
tưởng hay ít nhất cũng là tục đế tướng (Sammùti sacca nimitta) hoặc
thi thiết tướng (pannatti nimitta) thuộc về biến kế sở chấp, ngũ
trược hoặc tam tế lục thô, rơi vào nhân duyên, ngũ
uẩn.
Tự
tánh “bổn
lai vô nhất vật” thì còn ham xác định tướng để làm gì?
Kinh
Kim Cang nói:
“Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”. Tướng còn thấy là phi tướng huống chi là tánh. Nhưng ngay
khi thấy phi tướng tức là thấy tánh. Ngược lại, cố thấy tánh thì nhất định rơi
vào hữu tướng. Đó là điều rất đơn giản mà những người mắc phải bịnh thiền không
thể nào thấy được. Và đó cũng là lý do tại sao trong Phật Giáo Nguyên Thủy, Đức
Phật chỉ nói đến Pháp tướng vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh mà không nói
Pháp tánh thường - lạc - ngã - tịnh như các luận phái về sau.
Đức
Phật dạy:
“Này Sàriputta, an trụ của bậc đại Nhân tức là không tánh” (Mahàpurisa
vihàro h’esa, Sàriputta, yadidam sunnatà).
Nhưng
tánh không, vô nhất vật hoặc phi tướng không có nghĩa là không có gì
cả (Natthità). Không có gì cả tức rơi vào ngoan không hoặc hư vô
luận (Natthivàda).
Không
có đây là không có tướng vọng, không có nhất tướng vô minh (Ekàvijjà
nimitta) che lấp thực tướng của pháp. Nói
“thực tướng vô tướng” chính là nói với nghĩa này.
Vậy
không phải tánh không có tướng, mà tướng của tánh là thực tướng vô
tướng, cho nên bậc trí chỉ cần thấy như thị tướng thì đã là thấy
tánh mà không rơi vào đại
bịnh.
59.
TÌNH NGUYỆN ĐI THEO
Trong
buổi lao tác mệt mỏi, một chú tiểu đang mơ được nghỉ ngơi thoải mái, bỗng nghe chú
tiểu bạn hỏi:
-
Hỏi thiệt nghe, nếu có một điều ước, chú sẽ ước
gì?
-
Ư, thế thì hay lắm! Tôi sẽ ước được tái sanh vào một cảnh giới chỉ
có ăn, chơi và ngủ chứ không làm lụng gì cả.
-Ê,
tôi tình nguyện theo chú đó!
-
Ủa, chú cũng đồng minh với tôi hả?
-
Không đâu, tôi chỉ theo chữa bịnh cho chú kẻo tội nghiệp chú mà
thôi!
۞
Lời
góp ý:
Đôi
lúc những người tu hành cũng có những ý nghĩ thật tầm thường: đạt
đến một cõi giới an lạc như ý muốn của mình. Nhưng coi chừng, đạt
đến cõi giới như ý là bịnh hoạn đó nghe!
Nguyên
nhân sai lầm này là người ta không phân biệt được khổ đế với khổ thọ
bình thường.
Khổ
đế là ảo giác do ảo tưởng tập đế tạo ra, còn thọ khổ là cảm giác do
duyên pháp tự nhiên tạo ra. Bậc giác ngộ chỉ thoát khỏi khổ đế chứ
không cần giải thoát khỏi khổ thọ bình thường tự nhiên.
Khi
làm việc nhiều thì mệt, đói, khát v.v... Đó là khổ thọ tự nhiên chứ
không phải khổ đế. Chỉ cần nghỉ ngơi ăn uống là xong chứ đâu cần
phải tu hành giải thoát làm gì cho thêm
khổ.
Nhưng
khi bản ngã nói: “Sao ta lại phải làm việc mệt nhọc thế này, phải
chi ta đi chơi cho khỏe!” Bấy giờ, ảo tưởng đi chơi chống đối với
thực tế làm việc (Tập đế) tạo ra một ảo giác khổ sở, chán nản, bực
bội (Khổ đế). Thực tế thì bản ngã làm biếng này cũng chưa có gì nên
mệt cả mà đã thấy khổ rồi, còn người siêng năng chú tâm làm việc tuy
có mệt thật mà thấy vui nữa là khác. Vậy cái khổ của anh chàng làm
biếng hay vọng tưởng chỉ là ảo giác trong ảo tưởng mà
thôi.
Cho
nên cần phải biết rằng hễ còn ảo giác ảo tưởng thì dù có lên cõi Cực
Lạc Tây Phương cũng vẫn cứ khổ đế như thường, phải không các
bạn?
60.
CẢNH GIỚI LÝ TƯỞNG CỦA THIỀN
Một
thiền sinh nói:
-
Cảnh giới lý tưởng nhất của thiền là hoàn toàn tự do thoải mái. Tất
cả luật lệ, khuôn phép,, giáo điều, lễ nghi, quy tắc v.v... đều chỉ
là những ràng buộc, nên chúng hoàn toàn vắng bóng trong thế giới
thiền.
Một
thiền sinh khác cãi lại:
-
Cảnh giới lý tưởng nhất của thiền là hoàn toàn nghiêm túc. Anh không
nghe người ta nói “trang nghiêm Phật Quốc” hay sao? Vì vậy
theo tôi, cái gì thiếu quy củ, thiếu điều độ, thiếu nghiêm chỉnh,
thiếu mực thước đều là buông lung phóng dật, nên chúng hoàn toàn
không có mặt trong thế giới thiền.
Sư
nói:
-
Các anh đều đúng, nhưng đó là những cảnh giới lý tưởng nhất trong ý
niệm của mỗi người, chứ thiền làm gì có cảnh giới mà nhì với
nhất!
۞
Lời
góp ý:
Thiền
chẳng bao giờ có cảnh giới lý tưởng, nhưng tất cả cảnh giới đều là
cảnh giới thiền.
Thiền
không phải là một cuộc đổi chác giữa lý tưởng này với lý tưởng
khác.
Thiền
cũng không có thì giờ đâu mà chọn lựa thị phi. Cho
nên:
Mắt rợ hồ nở tròn xoe xanh
biếc
Lão thiền tăng chống gậy
ngắm trần gian
Hai chú gà mãi tranh nhau
thắng bại
Ánh mắt thiền xanh biếc vẫn
còn xanh
|