37.
SINH LÃO BỊNH TỬ
Sau
nhiều năm tinh tấn tu hành, một vị tăng vẫn không sao đạt được mục
đích mà ông hướng đến là thoát ly sinh, già, đau, chết. Đang lúc
buồn nản thì Sư đến thăm. Vị tăng hỏi:
-
Làm sao thoát khỏi sinh - lão - bịnh - tử?
Sư
than:
-
Chỉ tội cho Sinh - Lão - Bịnh - Tử thoát không khỏi
ông!
۞
Lời
góp ý:
Có
hai loại sinh - lão - bịnh - tử nơi mỗi
người:
1)
Của thế giới tự nhiên tâm - sinh - vật lý.
2)
Của thế giới ảo tưởng ngã kiến vọng chấp.
Tâm
- sinh - vật lý là diễn biến tự nhiên của sự
sống:
-
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thuộc về sinh
lý.
-
Sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về vật
lý.
-
Ý và pháp thuộc về tâm lý.
Ba
yếu tố này tương quan, tương duyên, tương dung, tương tác, tương
sinh, tương khắc mà hợp thành cái gọi là “con người” có sinh, có
già, có bịnh, có chết, có khổ, có lạc, có xả một cách tự nhiên, vô tư, vô
ngã.
Nhưng
khi sự tương - quan - vận - hành - tâm - sinh - vật lý này bị nhìn
qua ảo tưởng vọng thức (Tập
đế) thì liền trở thành bản ngã cùng với sự xuất hiện của ảo giác thời gian và đau khổ (Khổ đế). Bấy giờ không phải là sinh - lão
- bịnh - tử tự nhiên nữa mà là luân hồi sinh tử của bản ngã vọng chấp.
Ngược
lại, khi sự tương - quan - vận - hành - tâm - sinh - vật lý này được
trí tuệ soi chiếu
(Đạo đế) thì không còn ảo tưởng vọng thức, không còn ảo giác thời gian và đau khổ, nghĩa là toàn bộ luân hồi sinh tử của bản ngã chấm dứt (Diệt đế).
Ngay khi đó, thế giới tự nhiên tâm - sinh - vật lý được trả về đúng với bản
chất nguyên thủy của nó: Sinh - Lão - Bịnh - Tử “hiện toàn chân”như thị
như thực (yathàtathatà), chẳng cần thêm bớt.
Người
mê không lo giải thoát khỏi sinh - lão - bịnh - tử của ngã kiến vọng
chấp, lại cứ lo can
thiệp vào bản chất sinh - lão - bịnh - tử tự nhiên tâm - sinh - vật
lý. Ví như người quáng mắt tưởng sợi giây là con rắn rồi cứ nhè sợi
giây mà đánh, chỉ tội cho sợi giây bị đòn oan trong khi con rắn ảo
thì muôn đời vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi!
38. SẮC KHÔNG
Sư
ghé thăm một vị tăng nổi tiếng uyên thâm Phật Pháp và có nhiều sở
đắc. Vừa thấy Sư, vị tăng dùng phép thần thông ẩn mình đâu
mất.
Sư
hỏi:
-
Ông làm gì vậy?
Vị
tăng nói:
-
Đó là “sắc tức thị không”.
Sư
nói:
-
Đã “sắc tức thị không” sao ông lại phải biến mất làm gì. Hơn
nữa ông chỉ mới giấu được cái sắc thân, còn cái bản ngã của ông xem
ra lại càng lộ rõ hơn!
Vị
tăng cả giận hỏi lại:
-
Còn Thầy thì sao?
Sư
đáp:
-
Ngươi không thấy ta
“sắc bất dị không” hay
sao?
Lời
góp ý:
SẮC
KHÔNG là vấn đề được bàn cãi hàng ngàn năm vẫn chưa ngã ngũ. Và tiếc
thay nó đã trở thành một triết lý đầu môi! Tất nhiên là vậy, vì đây
đâu phải là
VẤN ĐỀ để lý luận, mà chính là SỰ KIỆN thân chứng (kàyasakkhì) hoặc thấy
bằng con mắt tuệ (pannacakkhunà passati).
SẮC
không phải là SẮC TƯỚNG - đối tượng của nhãn căn, không phải
là
SẮC THÂN - bao gồm tứ đại, không phải là SẮC PHÁP - đối nghĩa với Danh pháp.
SẮC
dùng trong ngũ uẩn là sự tập khởi của một diễn trình tương duyên,
tương tác và tương ứng giữa sáu căn, sáu trần và sáu thức (mười tám
giới). Vậy SẮC không phải là một hiện hữu cố định hay có sẵn, mà là
một phản ứng có điều kiện. Ngay khi ta đang ngồi
đây,
SẮC có thể có,
có thể không tùy theo
điều kiện tập khởi.
Nhưng
SẮC có hay không chẳng có gì quan trọng, có cũng được mà không cũng
được. Quan trọng là ở chỗ CÁI NHÌN. Nếu cái nhìn là ảo tưởng vọng
thức (Vipallatthasanna) thì có - không đều là ảo ảnh (màyà), như
người nằm mộng, thấy có thấy không đều là
mộng.
Nếu
cái nhìn là Tuệ Không Quán Chiếu (Sunnanupassananana) thì có - không
đều như thị. Không - có chẳng rời, có - không chẳng
khác.
Trong
mộng có - không đều ảo mộng
Tỉnh ra không -
có cũng hoàn không
Mặc ai có có
không không đó
Lặng lẽ hồn
nhiên một nụ cười.
39.
KHÔNG CÓ AI CẢ
Sư
đang quét sân, thiền sinh hỏi:
- Thế nào là
thiền?
Sư
nói:
-
Quét sân, quét sân...
Thiền
sinh thắc mắc:
-
Vậy ai quét sân cũng là thiền sư sao?
Sư nói:
-
Không có ai quét sân cả.
۞
Lời
góp ý:
Thế nào là
thiền?
Ngay
khi “lý trí muốn biết” lang thang dong ruổi tìm đạo tìm thiền, thì
than ôi, thiền đã xa xôi ngàn dặm ra đi!
Thấy
thế, Sư vội đánh thức gã “túy sinh” trở về thực tại. Nhưng ngay nơi
thực tại hắn lại toan đội lốt mọc sừng”.
Một
lần nữa, Sư lại ra tay lột mặt nạ cái gã “mộng du” bép xép. Chảng
biết gã có thấy ra được “mặt mũi xưa nay” của mình
không?
Ra đi khắp bốn phương
trời
Tìm ai mỏi gót muôn đời còn xa
Ta về gặp lại tình ta
Dấu
chân viễn mộng chỉ là phù vân.
40.
XIN HOÃN LẠI
Một
tục gia đệ tử đến bái yết Sư, muốn biết anh ta tu bao lâu nữa mới
đạt đến Niết Bàn.
Sư
nói:
-
Còn lâu lắm.
Nghe
vậy, người đệ tử vô cùng chán nản.
Nhưng
Sư lại nói tiếp:
-
Thôi được, ta có pháp môn này có thể đạt đến Niết Bàn ngay, để ta
dạy cho ngươi.
Bấy
giờ người đệ tử bối rôi thưa:
- Thưa Thầy, chưa được, để hoãn hoãn cho con thu
xếp việc nhà đã.
۞
Lời
góp ý:
Phần
lớn người tu ai cũng nói đến mục đích giác ngộ giải thoát: viễn lý
điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Nhưng trên thực tế, người ta
lại cố tình trì hoãn.
Người
ta viện đủ lý do chính đáng, những lý do trì hoãn cực kỳ thiện xảo
tinh vi, những nhãn hiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy: nào hạnh nguyện
vị tha, nào vào ra sinh tử độ tận chúng sanh, nào dấn thân nhập thế
cư trần bất nhiễm..., thế là đã có chỗ ẩn náu an toàn cho bản ngã
ung dung làm trò múa rối!
Những
bậc Đại Bồ Tát nghe chúng sanh viện lẽ cũng phải cười dài, tội
nghiệp cho chúng sanh mê muội cứ tưởng giác ngộ giải thoát là chẳng
còn gì tất, nên nấn ná đầu sào trăm trượng chẳng dám nhảy bước cuối
cùng, đâu hay chính lúc đó “thập
phương thế giới hiện toàn chân”.
Như
xưa có một vị hoàng tử từ nhỏ bị lạc vào rừng. Tù trưởng bộ lạc thấy
dễ thương đem về cho chơi với bọn trẻ. Để hoàng tử khỏi buồn, Tù
trưởng bày trò chơi “vua tôi” cho bọn chúng và bảo hoàng tử làm vua,
bọn trẻ con bộ lạc làm thần dân, suốt ngày vui chơi thỏa thích, quên
cả nhớ nhà. Một hôm, vua cha sắp băng hà, sai các vị đại thần đi tìm
hoàng tử về nối ngôi. Khi tìm được hoàng tử, các đại thần khẩn khoản
cầu xin hoàng tử hồi cung đăng quang kế vị. Hoàng tử nghĩ: “Bây giờ
ta đã làm vua rồi còn về cung làm gì nữa, biết có hơn gì không?” Thế
là hoàng tử viện cớ trí hoãn chẳng chịu trở về, say mê chơi trò con
nít !!!
Ham chơi trò con nít
Ôi lộng giả thành chơn
Biết bao giờ tỉnh ngộ
Nhìn
thấy tận nguồn cơn.
41.
VĨNH CỬU
Một
đạo sĩ du già tin rằng một ngày kia, sau khi đã dày công khổ luyện,
ông sẽ thoát khỏi thế giới huyễn hóa (màyà) này để đạt đến một cõi
vĩnh hằng, ở đó, con người mãi mãi trường sinh bất tử. Đạo sĩ trình
bày với Sư quan điểm đó để xem Đạo Phật lý giải thế nào. ông
hỏi:
-
Đạo Phật có tin một thế giới vĩnh cửu không?
Sư
chỉ một giọt sương trên đóa hoa phù dung vừa mới nở,
nói:
-
Có, đây chính là thế giới vĩnh cửu.
Đạo
sĩ ngạc nhiên:
-
Đức Phật cũng nói “các pháp hữu vi là vô thường” kia
mà?
Sư
nói:
-
Thế ông tưởng cái gì lâu dài mới vĩnh cửu
sao?
۞
Lời
góp ý:
Nghe
Lão Tử nói đến đạo thường, các đạo gia liền mơ tìm cõi đào nguyên
trường sinh bất tử. Nghe Phật nói Pháp tướng vô thường, khổ não, vô
ngã, bất tịnh thì lý trí liền vẽ ra một thể tánh thường - lạc - ngã
- tịnh làm mục đích trốn chạy cõi vô thường, để rồi người ta đổ xô
đi tìm... viễn mộng!
Lầm
lẫn đáng thương nhất trên đời là đồng hóa vĩnh cửu với thời gian.
Vĩnh cửu không hề đối nghịch với vô thường. Vĩnh cửu mà tìm ngoài vô
thường, cũng như pháp tánh mà tìm ngoài pháp tướng thì chỉ gặp lông
rùa sừng thỏ, uổng công dã tràng xe cát!
Còn
bản ngã thì còn ý niệm, còn ý niệm thì còn thời gian, còn thời gian
thì chẳng bao giờ thấy được vĩnh cửu! Nhưng ngay khi bản ngã, ý niệm
và thời gian chấm dứt thì liền thấy vĩnh cửu đang du hí thần thông
trong trò chơi ảo hóa vô thường.
Vĩnh cửu mong tìm mà
chẳng được
Vô thường muốn bỏ lại cưu
mang
Mai sau nhắn với hàng
con cháu
Chớ mất công toi
chuyện dã tràng!
42.
XUẤT MÔN
Một
chú tiểu đang say mê nghiên cứu cuốn “Diệu Pháp Nhập Môn”,
thỉnh thoảng đắc ý nói một mình: “Thật là tuyệt diệu! Thật là tuyệt
diệu!”
Sư
đi ngang qua nói:
-
Ngươi đọc xong cuốn đó ta sẽ cho học “Diệu Pháp Xuất Môn”.
-
Bạch Thầy, nhập được môn này con thấy kỳ diệu quá sao lại xuất
môn?
Sư
nói:
-
Bởi vậy người ta mới nói nhập môn đã là kỳ diệu mà xuất môn lại càng
kỳ diệu hơn.
۞
Lời
góp ý:
Xưa
có hai cha con ông bá hộ, vì chiến tranh loạn lạc phải bỏ nhà ra đi
tha phương cầu thực. đến lúc thái bình thì người cha đã già yếu sắp
lìa bỏ cõi trần. ông bá hộ bèn viết chúc thư giao lại tòa lâu đài
của ông tại quê nhà cho con. Trong chúc thư ông tả rõ đường về quê
cũ, dáng dấp ngôi nhà và từng công dụng chi tiết của những vật báu
bên trong.
Người
con hằng ngày cứ ngồi đọc chúc thư với lòng tự hào hãnh diện rằng
mình là chủ nhân của một tòa lâu đài tráng lệ. Càng đọc, anh càng
say mê với sự kỳ diệu của những vật báu trong kho tàng vô
giá.
Có
người thấy thế hỏi: “Kho tàng quý giá của anh hiện giờ ở đâu?” Anh
tự hào chỉ chúc thư và nói: “Thì đây chứ còn đâu
nữa!”
Diệu
Pháp (Abhidhamma) là một trong ba tạng giáo điển của nhà Phật. Diệu
Pháp cũng chính là đệ Nhất Nghĩa đế (chân lý rốt rạo -
paramatthasacca). Như vậy, Diệu Pháp vừa có nghĩa là ngôn ngữ chỉ bày
thực tại, vừa có nghĩa là chính tự thân thực tại. Nhưng khi một
người còn say mê với ngôn ngữ kỳ diệu nói về thực tại thì có nghĩa
là anh ta chưa hề thấy thực tại kỳ diệu bao giờ.
Mau mau
thoát khỏi rừng kinh điển
Mở mắt mà
xem chuyện gì đây
Chớ luận
Tam Hoàng rồi Ngũ đế
Cũng đừng
nằm mộng giữa ban ngày.
43.
THÁNH KHÔNG BIẾT ĐAU
Thị
giả của Sư nghe người ta kể rằng chủ nhà của hiền triết Epitète đối
xử với ông rất tệ. Người chủ cho vặn chân Épitète để tiêu khiển. Nhà
hiền triết nói:
-
Nếu ngài tiếp tục thì chân tôi sẽ gãy.
Nhưng
người chủ vẫn tiếp tục và chân ông gãy thật. Epitète ôn tồn
nói:
-
Đấy, tôi nói có sai đâu.
Nghe
xong, thị giả cứ khen hoài: “Thật là một nhà hiền triết siêu việt!”
Rồi thị giả chợt nghĩ rằng: “Thầy mình là một thiền sư nổi tiếng,
vậy để xem có bằng Épitète không?” Nhân Sư đang nằm nghỉ, thị giả
tụm lấy chân Sư vặn mạnh. Sư nói:
-
Đau, đau.
Thị
giả thất vọng nói:
-
Còn đau thì đâu phải là đạt đạo!
Sư
nói:
-
Chứ ngươi muốn ta đạt cái đạo vô cảm giác hay
sao?
Lời
góp ý:
Đạt
đạo không phải là luyện thành mình đồng da sắt, mà đơn giản chỉ là
đau thấy đau, lạnh thấy lạnh, trong sáng bình thường chẳng cần thêm
bớt. Nhưng phần lớn người tu không chịu nổi
“bình thường tâm thị đạo” nên tự đặt cho mình những lý tưởng phi thường, những sở đắc siêu nhiên.
Nhưng
sở đắc chỉ là con đẻ của vô minh ái dục, dù sở đắc có vĩ đại cách
mấy cũng chỉ là ảo mộng.
Khí
công thượng thừa, định lực kiên cố, pháp thuật cao cường, thần thông
quảng đại, v.v... là những mục đích hấp dẫn của người tu luyện. Thế
là trần gian trở thành một... trường đua vĩ
đại!
Càng
đấu tranh, càng tiến bộ, càng đạt nhiều thành quả, càng bước lên địa
vị cao siêu thì lại càng xa đạo. Vì sao vậy? Vì đó chỉ là con đường
bành trướng của bản ngã mộng mơ.
Tu
là bỏ. Bỏ là không chấp trước, chứ không phải lấy - bỏ theo nghĩa
thường tình. đạt đạo là bỏ hết, chẳng những không còn một chút ảo
tưởng mộng mơ, mà ngay cả Niết Bàn cũng không chấp trước
(Nibbànam
n’àbhinandati - Kinh Căn Bản Pháp Môn, Trung Bộ Kinh). Chư Phật và A La Hán không phải là địa vị sở đắc như
người ta lầm tưởng, mà chính là dẹp hết chẳng còn SỞ gì để đắc, phá hết chẳng
còn ĐỊA nào để đứng.
Khi
nghe nói vậy, chúng sanh sợ khiếp, bèn vội vàng lập địa vị để tu,
bày sở cầu để chứng. Không biết rằng:
“Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc”, chẳng luyện, chẳng đắc, chẳng cầu, chẳng chứng.
Trong ngoài lặng lẽ chẳng vin đâu
Sáng suốt hồn nhiên khỏi vọng cầu
Buông hết một phen đừng luyến tiếc
Ai hay ngay đó thấy đạo mầu.
44.
LÀM CHỦ
Chủ
nhân một xí nghiệp lớn nọ xin vào thiền viện cư thất một tháng. ông
rất tinh tấn nên ai cũng nghĩ là ông sẽ thành công như ông đã thành
công trong việc điều hành xí nghiệp.
Nhưng
khi ra thất, ông bạch với Sư:
-
Con đã cố gắng, nhưng sao chưa làm chủ được
mình?
Sư
nói:
- Tại ông đã quen cái nghề
làm ông chủ mất rồi!
۞
Lời
góp ý:
Nguyên
nhân gây ra ba cõi không yên như ngôi nhà cháy chính là bản ngã, đứa
con cưng của vô minh ái dục. Vậy mà người tu cứ bất mãn với bản ngã
này, rồi dựng lên bản ngã khác cao thượng hơn, hoàn hảo hơn,..., rồi
lại bất mãn, rồi lại dựng lên..., cứ thế mà luân hồi sinh tử, trôi
lăn ba cõi sáu đường.
Bản
ngã nhỏ (tiểu ngã) thì khổ nhỏ, bản ngã lớn (đại ngã) thì khổ lớn,
chạy trời không khỏi nắng được đâu.
Trong
bản ngã hàm chứa ý niệm, thời gian và đau khổ nên tự nó chẳng bao
giờ viên mãn. Bản ngã này vừa mới sinh ra thì kẻ bất mãn bản ngã
cũng vừa xuất hiện. Kẻ bất mãn đòi phê phán, sửa sai và làm chủ bản
ngã, có ngờ đâu, chính hắn cũng là bản ngã, cho nên ngay sau lưng
hắn, một kẻ bất mãn khác cũng đã trực chờ. Vậy biết bao giờ ai làm
chủ được ai?
Xưa
có người nằm mơ, thấy mình lọt vào một ngôi nhà kính vạn hoa, anh
bỗng thấy mình phân thân cùng khắp. Chẳng biết ai là chân, ai là
giả. Anh cười, những người kia cũng cười; anh giận, những người kia
cũng giận; anh nói chúng là ảo ảnh, chúng cũng bảo anh là ảo ảnh;...
Cãi vả om sòm, hét la ầm ĩ cho đến khi tất cả đều té nhào ngất xỉu.
Giật mình tỉnh dậy chẳng thấy một ai, té ra, tất cả chỉ đều là
mộng.
Tu hành lấy vọng để cầu chân
Nào có hay đâu vọng hai lần
Chẳng vọng chẳng chân, ngay tại đó
Bản lai diện mục hiện toàn chân.
45.
SAO LẠI HỎI TÔI
Người
học đạo thường muốn hiểu chữ tâm họ tìm tòi trong Abhidhamma
(thuộc Nam Tông) hoặc Duy Thức Luận (thuộc Bắc Tông) để phân
tích cho rành rẽ thế nào là tâm. Nhưng khi bước vào các môn luận
này, họ đụng phải một rừng thuật ngữ chuyên môn, nào bằng tiếng
Pàli, nào bằng tiếng Sanskrit, lại còn cả những từ ngữ chữ Hán nữa.
Đó là chưa kể việc các môn học này cũng chưa hoàn toàn nhất trí với
nhau về nhiều vấn đề. Vì vậy, người học tưởng chừng sáng được cái
tâm, ai dè càng thêm tăm tối.
Một
học giả đành đến tham vấn Sư:
-
Thưa Ngài! Thức, tâm, ý, tình, trí v.v... khác nhau như thế
nào?
Sư
nói:
-
Ủa, cái đó anh tự hỏi anh chứ sao lại hỏi tôi?
۞
Lời
góp ý:
Biết
bao người có thói quen tìm chân lý trong ngôn
ngữ.
Thuộc
lòng một số định nghĩa trong kinh, trong sách đã ba hoa nói chân nói
lý. Còn tự thân chân lý thì chẳng biết nơi đâu mà tìm cho
được.
Lấy
kinh luận mà nghiên cứu tâm đã là chuyện buồn cười, lại nhè người
khác mà vấn nạn tâm thì quả là đáng khóc.
Hướng ngoại cầu tâm tâm chẳng ổn
Đem tâm kiếm đạo đạo còn lâu
Tâm ở gốc tâm sao chẳng thấy
Đạo còn nơi đạo mãi tìm đâu?
46.
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Mặc
dù đã học nhiều kinh sách cũng như đi nghe giảng pháp ở nhiều đạo
tràng, anh ta vẫn không hiểu đích xác “Thập Nhị Nhân Duyên”
là gì. Cuối cùng anh đến tham vấn Sư:
- Xin Thầy chỉ cho pháp Thập
Nhị Nhân Duyên.
Sư
nói:
-
Anh vừa bỏ mất một bài Thập Nhị Nhân Duyên
rồi!
Tưởng
Sư vừa giảng xong bài pháp đó mà anh đến trễ, chàng thanh niên đành
để dịp khác. Ít lâu sau, anh đến lại xin hỏi về Thập Nhị Nhân Duyên.
Sư nói:
-
Anh lại vừa để mất một bài Thập Nhị Nhân Duyên nữa!
۞
Lời góp ý:
Đức
Phật dạy:
“Thấy thập nhị nhân duyên tức thấy pháp, thấy pháp tức là thấy Như
Lai”.
Ngài
Huyền Giác nói: “Vô
minh thật tánh tức Phật tánh”.
Hai
câu nói hoàn toàn đồng nghĩa.
Thấy
thực tánh vô minh tức là minh. Minh tức là giác, giác tức là Phật
tánh, Phật tánh tức Như Lai. Thấy thực tánh vô minh tức
thấy
“y tánh duyên khởi pháp” của thập nhị nhân duyên.
Nói
thập nhị nhân duyên dành cho Duyên Giác là chuyện ấu trĩ thật buồn
cười. Không ai thành Phật mà không thấy thực tánh của vô minh, không
ai giác ngộ mà không có con mắt thấy Pháp (Pháp nhãn). Tất cả Bồ Tát
đều phải giác ngộ y tánh duyên khởi của thập nhị nhân
duyên.
Thập
nhị nhân duyên lại không khác Tứ đế. Phân Tứ đế cho Thanh Văn, Nhân
Duyên cho Duyên Giác lại là chuyện buồn cười hơn nữa. Vô minh tức
Tập đế. Vô minh tạo ra ảo giác sinh tử khổ đau tức Khổ đế. Thấy thực
tánh vô minh tức đạo đế. Vô minh chỉ là ảo tưởng không có thật, nên
thấy thực tánh vô minh có nghĩa là thấy vô minh không có thực tánh,
hay nói một cách khác,
vô minh diệt tức Diệt đế. Vậy Thập Nhị Nhân Duyên là một cách
nói khác của Tứ đế mà thôi.
Quán
Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát-nhã-ba-la-mật-đa chính là tu Đạo Đế.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không: ngũ uẩn tức Tập Đế, giai không tức
Diệt Đế. độ nhất thiết khổ ách: khổ ách tức Khổ Đế. Vậy Bồ Tát muốn
đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu Tam-bồ-đề phải tu Tứ Đế, Thập Nhị Nhân
Duyên. Tất cả chư A La Hán Chánh Đẳng Giác đều đã thấy năm uẩn, mười
tám giới, mười hai nhân duyên, bốn Đế giai không y như nhau
cả.
Tiếc
thay người mê chỉ học Pháp trên ngôn ngữ rồi luận Bắc luận Nam, nói
đại nói tiểu mà bỏ mất bài học của Pháp ngay chính nơi thực tại hiện
tiền.
47.
PHẨM PHỔ MÔN THẬT
Một
bà tín nữ thường ngày tụng niệm Phẩm Phổ Môn nhiều lần, tin
rằng sẽ tai qua nạn khỏi và cầu gì được nấy. Chẳng bao lâu bà thấy có nhiều ứng nghiệm.
Nhân
đến trình pháp với Sư, bà nói:
-
Thưa Thầy, con tụng Phẩm Phổ Môn thấy quả thật linh
ứng.
Sư
ngạc nhiên nghĩ thầm: “Bà này mới tụng Phổ Môn giả mà hiệu nghiệm như thế, huống chi nếu bà tụng được Phẩm
Phổ Môn thật!”
۞
Lời
góp ý:
Tất
cả kinh giáo đều như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng mới là “kinh
thật”, còn ngón tay chỉ là “kinh giả” lập phương tiện. Nghe nói Phẩm
Phổ Môn cầu gì được nấy, người ta chẳng cần đọc hết kinh Pháp Hoa
làm gì, cứ một Phẩm Phổ Môn là đủ cầu Đức Quán Thế Am ban cho đủ
điều ức nguyện. Có ngờ đâu đó là Phẩm Phổ Môn giả, còn Phẩm Phổ Môn
thật lại chính là pháp tu “phản
văn tự kỷ” mà mỗi người phải tự đóng vai Đức Quán Thế Am để tự nghe tự độ. Chỉ cần thất niệm bất giác, phóng
dật hướng ngoại là mất ba mươi hai thân! Mỗi người phải biết làm Đức Quán Thế
Am hay làm Quán Tự Tại Bồ Tát để “phản văn tự kỷ mỗi thường quan”. Cho
nên, kinh Lăng Nghiêm nói rõ Đức Quán Thế Am điển hình đã “sơ y
văn trung nhập lưu vong sở”cho đến khi “tịch diệt hiện
tiền”thì “nhĩ căn viên thông” trong ngoài nghe suốt. Nhưng không phải nghe như thiên nhĩ thông của
chư thiên đâu, đây là cái nghe của người giác ngộ, nghe bằng trí tuệ quán chiếu (Vipassanà nàna).
Vậy Quán Thế Am hay Quán Tự Tại là lắng nghe soi chiếu thế giới tự thân cho đến
khi thông suốt trong ngoài là nhĩ căn viên thông vậy.
Xưa
có anh chàng khờ may được một cuốn Thần Dược Thư. Trong đó nói có
một vị Thần Y chữa lành bá bịnh và ghi rõ cách chữa trị của người.
Chàng khờ nghe nói Thần Y chữa lành bá bịnh liền ngày đêm cầu nguyện
Thần Y, nhưng bịnh anh càng ngày càng nặng. Xóm giềng thấy vậy hỏi
sao anh không theo toa trong sách mà bổ thuốc về uống, cầu nguyện
làm gì. Anh khờ nổi giận bảo hàng xóm là đồ ngu, chẳng tin thần
thánh, rồi tiếp tục ngồi cầu!
48.
KHÔNG MẤT MÁT GÌ
Sư
đang đi kinh hành. Một thiền sinh đến hỏi:
-
Làm sao thấy được chân tướng của vạn pháp?
Sư
nói:
-
Bỏ ý nghĩ đó đi.
-
Như thế không cần thấy chân tướng của vạn pháp
sao?
Sư
mắng:
-
Ngươi thấy hay không thấy thì chân tướng của vạn pháp đâu có mất mát
gì.
۞
Lời
góp ý:
Thấy
tánh thấy tướng mà còn khởi “ý niệm thấy” thì tánh tướng đó chỉ là
hoa đốm giữa hư không trước con mắt bịnh. Dầu có ai thấy hay không
thấy thì tánh tướng vẫn y nhiên thong dong tự tại. Vậy chẳng thà
đừng thấy còn hơn thấy lầm thấy bậy. Vì thấy lầm chỉ khổ cho mình,
cho người chứ tánh tướng có mất mát gì đâu.
Kinh
Aggi-vacchagotta nói:
“Kết luận pháp là thường, vô thường, hữu biên, vô biên, đồng nhất,
dị biệt, có, không, vừa có vừa không, không có không không,... đều
là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh
chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, tàn hại, não hại, nhiệt não,
không hướng đến yếm ly, ly tham đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết Bàn”.
Vậy
chớ có bắt chước Thánh Nhân mà gạn cho pháp những nhãn hiệu vô
thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh hay thường , lạc, ngã, tịnh rồi
đảo điên tánh tướng,
bôi bác chân như (yathàbhùta), nhiễu loạn tín
chúng.
Xưa
có đứa con ngu dốt, mời Thầy thuốc về chữa bịnh cho mẹ. Thầy thuốc
bắt mạch, kê toa, dặn dò liều lượng chu đáo. Quả nhiên mẹ uống vài
thang đã hoàn toàn bình phục. đứa con thấy thuốc hay, liền tự xưng
Thầy thuốc, chữa bịnh cho người. Bất kỳ bịnh gì anh cũng cho toa
thuốc đó với liều lượng y nguyên. Bịnh chẳng thấy lành, nhiều người
chết oan. Cuối cùng bị vua bắt đem ra pháp trường xử
trảm.
Thấy thì nên nói thấy
Không thấy cứ bảo không
Chẳng thà rằng không thấy
Còn hơn thấy bông
lông.
|