loading
Sinh Hoạt Tôn Giáo
Đại Trưởng Lão Thủ Trì Tam Tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa đến Việt Nam

Nhận lời thỉnh cầu của Tổ đình Bửu Long, Đại trưởng lão Thủ Trì Tam tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa sẽ đến Việt Nam, từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 2008 (20/9 đến 28/9 năm Mậu Tý‎, Phật lịch 2552) để cho phần đông Phật tử Việt Nam có duyên lành được diện kiến, đảnh lễ, cúng dường Ngài. Chi phí cho chuyến đi này của Ngài do gia đình thí chủ Nguyễn Hòa Bích Ty phụng tiến.

 

Lịch trình:

 

- 19/10/2008 (21/9/Mậu Tý): từ Tổ đình Bửu Long cung thỉnh Ngài Đại trưởng lão quang lâm chứng minh Đại lễ Kaṭhina tại thiền viện Viên Không, xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trong hai ngày 19 và 20/10/2008.

− 21/10/2008 (23/9/Mậu Tý): cung thỉnh Ngài Đại trưởng lão trở về Tổ đình Bửu Long. Tại đây, Ngài chủ trì Tăng sự làm lễ xả mốc giới Sīmā cũ và kiết mốc giới Sīmā mới tại Bảo tháp Gotama cetiya (21,22,23/10/2008).

Nhân dịp may hiếm có này Tổ đình Bửu Long long trọng tổ chức cuộc lễ Dhammapūjā (Cúng dường Pháp Bảo) Ngài Đại trưởng lão Tam tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa vào thứ Bảy, 25 /10/2008 để cho Phật tử Việt Nam có cơ hội tỏ lòng tôn kính, gieo duyên lành thù thắng với Giáo pháp của Đức Phật Gotama bởi vì Ngài Đại trưởng lão là Bậc tôn đức thông thuộc, thấu suốt Tam Tạng, Bậc Thủ trì kho tàng Chánh Pháp (Tipitakadhara Dhammabhaṇdāgārika).

   TÓM LƯỢC TIỂU SỬ CỦA BẬC ĐẠI HIỀN TRÍ 

    THUỘC LÒNG TAM TẠNG THỨ VI:
ĐẠI TRƯỞNG LÃO
SAYADAW
BHADDANTA VĀYĀMINDĀBHIVAṂSA MAHĀTHERA
(TIPITAKADHARA, TIPITAKAKOVIDA, AGGAMAHĀPAṆDITA,
TIPITAKADHARA DHAMMABHAṆDAGĀRIKA)

 Sinh quán:

Đại Trưởng lão Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa sinh trưởng tại làng Shwe-kyaung, thị xã Ye-sa-gyo, xứ Pa-kok-ku, tỉnh Ma-gwe, Myanmar vào ngày thứ tư, 23 tháng 02 năm Phật lịch 2499 (DL.1956). Ngài là quý tử của ông U Bha Yi và bà Daw Uong. Ngài thường được biết dưới pháp hiệu: Bậc Đại Hiền Trí Thủ Trì Tam Tạng Ye-sa-gyo Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa.

Xuất gia:

Ngài mồ côi cha mẹ vào năm lên 6; 7 tuổi Ngài vào chùa nương tựa, học hành.

Năm 13 tuổi Ngài xuất gia sa-di tại chùa Myauk-kyaung, thị xã Ye-sa-gyo với Thầy thế độ là Ngài Đại Trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Nanda, vào ngày thứ Năm, 14/6/ năm Phật lịch 2511 (DL.1968), có pháp danh là Vāyāminda. Bà con nội ngoại đã đứng ra lo liệu các chi phí của cuộc lễ.

Năm 20 tuổi Ngài thọ đại giới tỳ-khưu tại chùa Ywa Lay, thị xã Nyaung Ton với thầy thế độ là Ngài Đại trưởng lão Bhaddanta Vicāra, vào ngày Chủ Nhật, 25 tháng 10 năm Phật lịch 2518 (1975). Thí chủ lễ thọ đại giới tỳ-khưu là gia đình thương gia ở thị xã Nyaung Ton: ông U Bo Wa, bà Daw Sien Tin. Ngài là một vị tỳ-khưu có đủ giới đức, định đức, tuệ đức được phần đông chư tỳ-khưu, sa-di và những cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch kính trọng.

Để tỏ lòng tôn kính Ngài, các thí chủ thường xin tổ chức nhiều lần làm lễ Dalhīkamma: thỉnh chư Đại đức Tăng tụng Ñatti-catutthakammavācā để cúng dường Ngài.

 

Theo học Pháp học:

 

Pháp học là một trong ba trụ cột của Phật Pháp. Để nắm vững và thấu suốt lời của Đức Phật còn ghi chép lại trong Tam Tạng, Ngài đã theo học với các bậc giáo thọ sư nổi tiếng uyên thâm như:
− Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Neminda, Bhaddanta Nanda tại ngôi chùa Myauk-kyaung, thị xã Ye-sa-gyo;
− Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Vimala ở chùa Wun Min Kyi, Học viện Hta The, thị xã Ye-sa-gyo;
− Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Dhammapāla, tại chùa Dhammamañcū, Học viện Hta The, thị xã Ye-sa-gyo;
− Đức Tăng trưởng phái Shwe Chin Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Vimala (Abhidhajamahāraṭthaguru), Ngài Bhaddanta Ñāṇavaṃsa, Ngài Bhaddanta Indāvaṃsā-bhivaṃa, Ngài Bhaddanta Indāvudhaññanābhivaṃsa, Ngài Bhaddanta Kusalābhivaṃsa tại Đại tự viện Shwe Hin Hta To Ya, thị xã Nyoung Ton;
− Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Obhāsa tại Đại tự viện Mahāvihāra To Ya, thị xã Da Nu Phyu;
− Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Kumārā-bhivaṃsa (Aggamahāpaṇdita) tại chùa Ban Mo, Đại tự viện Mahāvisuddhāyuṃ ở thành phố Mandalay;

− Đặc biệt hơn cả là với Ngài Đại trưởng lão Thủ Trì Tam Tạng Đệ nhất Min Gun Sayadaw Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇdāgārika (Abhidhajamahā-raṭthaguru, Abhidhajamahāsaddhammajotika) tại Đại tự viện Tipitakanikāya, Mo Miek Kun Myay, tỉnh Sa Gaing,… cũng như với nhiều bậc Đại trưởng lão uyên thâm khác.

 

Tài năng xuất chúng:

Ngài là bậc có trí nhớ thuộc lòng chính xác, có trí tuệ tuyệt vời cho nên có rất nhiều bằng cấp vì đã vượt qua các kỳ thi do chính phủ Myanmar và các hội đoàn Phật giáo lớn trong nước tổ chức. Dưới đây xin nêu ra một số danh hiệu, học vị về pháp học mà Ngài đã được chính phủ và các hội đoàn Phật giáo lớn ở Myanmar phong tặng, sau khi Ngài đã thi đậu các kỳ thi do họ tổ chức:

 

1− Aggamahā-Kyo: thủ khoa Dhammācariya (năm 1973), do chính phủ phong tặng. Đây là danh hiệu đặc biệt vì trong kỳ thi Dhammācariya năm đó Ngài còn là Sa di 18 tuổi mà đậu thủ khoa trong toàn quốc. (Theo tài liệu lịch sử thi cử, sa-di đậu thủ khoa Dhammācariya cho tới nay chỉ có đôi ba vị mà thôi!)
2− Sāsanāpāladhammācariya Abhivaṃsa năm 1973, khi ngài còn là sa-di−18 tuổi (do Hội Shwe Chin Nikāyasāsanāpāla, Nyaung Ton phong tặng).
3− Sāsanadhaja sirīpavara dhammācariya năm 1974, khi Ngài là sa-di−19 tuổi, do Chính phủ phong tặng
4− Vinayadhara năm 1978, lúc Ngài 23 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
5− Nikāyujjotakavinayadhara năm 1978, lúc Ngài 23 tuổi, do Hội Phật giáo tại thủ đô Yangon phong tặng.
6− Vinayapāḷipāragū năm 1980, lúc Ngài 25 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
7− Vinayakovida năm 1980, lúc Ngài 25 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
8− Gambhīrañānikavinayadhara năm 1980, lúc Ngài 25 tuổi, do Hội Maṅgalāvati Visuddhi, thủ đô Yangon phong tặng.
9− Nikāyujjotakavinaya dhammācariya năm 1980, lúc Ngài 25 tuổi, do Hội Phật giáo thủ đô Yangon phong tặng.
10− Dīghabhānaka năm 1981, lúc Ngài 26 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
11− Dīghanikāyakovida năm 1983, lúc Ngài 28 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
12− Nikāyujjotakadīghanikāya dhammācariya năm 1983, lúc Ngài 28 tuổi, do Hội Phật giáo tại thủ đô Yangon phong tặng.
13− Abhidhammapāḷipāragū năm 1985, lúc Ngài 30 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
14− Nikāyujjotaka atthavisārada mūla abhidhammika năm 1987, lúc Ngài 32 tuổi, do Hiệp hội Phật giáo tại thủ đô Yangon phong tặng.
15− Nikāyujjotaka atthavisārada majjhima abhidhammika năm 1991, lúc Ngài 35 tuổi, do Ngài Đại trưởng lão Pye Tipitakadhara Sayadaw tại thủ đô Yangon ban tặng.
16− Abhidhammika năm 1992, lúc Ngài 36 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
17− Nikāyujjotaka atthavisārada upari abhidhammika năm 1992, lúc Ngài 36 tuổi, do Ngài Đại trưởng lão Kyauk Thap Kyi Sayadaw tại thủ đô Yangon ban tặng.
18− Nikāyujjotaka atthavisārada abhidhammika năm 1992, lúc Ngài 36 tuổi, do Hội Phật giáo tại thủ đô Yangon phong tặng.
19− Tipiṭakadhara năm 1993, lúc Ngài 37 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
20− Abhidhammakovida năm 1995, lúc Ngài 39 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
21− Tipiṭakakovida năm 1995, lúc Ngài 39 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
22− Aggamahāpaṇḍita năm 1999, lúc Ngài 44 tuổi, do Chính phủ phong tặng.
23− Tipiṭakadharadhammabhaṇḍitāgārika năm 2001, lúc Ngài 46 tuổi, do Chính phủ phong tặng.

……Và còn rất nhiều danh hiệu cao quý khác.

 

Trong kỳ thi Tam tạng lần thứ 45, năm 1993 (lúc Ngài 37 tuổi), trưởng lão  đã thi đậu phần tụng thuộc lòng, cho nên chính phủ Myanmar phong tặng Ngài danh hiệu cao quí là Tipiṭakadhara: Bậc Thủ trì Tam tạng thánh điển.

 

Trong kỳ thi Tam tạng lần thứ 47, năm 1995 (39 tuổi), Ngài đã thi đậu phần thi viết Tam tạng, Chú giải và phụ Chú giải…; vì vậy, chính phủ Myanmar phong tặng Ngài danh hiệu cao quí tột cùng của chương trình khảo hạch Tam tạng là  Tipiṭakakovida: Bậc Đại Trí Liễu Thông Tam tạng thánh điển.

 

Sau khi Ngài đạt được các học vị tối cao của Pháp học như  Tipiṭaka-dhara,  chính phủ Myanmar đã phong tặng Ngài bằng sắc, cờ hiệu và một khuôn dấu tròn có biểu tượng 3 lọng trắng cán vàng, một bên hình con dấu chính phủ Myanmar và một bên hình tròn ngôi sao 5 cánh; đường viền tròn bên ngoài có ghi dòng chữ danh hiệu của Ngài là:  Tipiṭakadhara,  Tipiṭakakovida Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa Phật lịch 2539 (DL.1995).

 

Ngoài ra, chính phủ Myanmar còn hộ độ cúng dường Ngài và 2 vị đệ tử thị giả những chỗ ngồi thượng hạng trên mọi phương tiện đi lại như: máy bay, xe lửa,… mỗi khi Ngài quang lâm đến bất kỳ nơi nào trong nước. Các thứ vật dụng thiết yếu cũng được dâng cúng lên Ngài cùng chư tỳ-khưu, sa-di theo học Tam tạng tại bất kỳ ngôi chùa nào mà Ngài thường trú.

 

Tri ân và báo ân:

 

Ngài Trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa là người xem trọng việc tri ân và báo ân Thầy Tổ. Đặc biệt đối với Ngài Đại trưởng lão đệ nhất Thủ trì Tam tạng Sayadaw Mingun (Vị thi đậu Tam tạng đầu tiên, có danh xưng là Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa vào năm Phật lịch 2497 [DL.1953]). Ngài là vị thông thuộc Tam tạng đầu tiên xuất thân từ Đại tự viện  Tipiṭakanikāya do Ngài Đại trưởng lão Sayadaw Mingun thành lập, chuyên đào tạo Tăng tài theo học Tam tạng để duy trì pháp học Phật giáo được tồn tại lâu dài trên thế gian.

 

Sau khi Ngài Đại trưởng lão Tam tạng Sayadaw Mingun viên tịch (năm 1992), Ngài là người kế thừa, đứng ra đảm nhiệm trọng trách dạy dỗ chư tỳ-khưu, sa-di để đào tạo trở thành những vị Tăng tài thuộc lòng Tam tạng mai sau, theo ý nguyện của Ngài cố Đại trưởng lão Tam tạng Sayadaw Mingun (Tại Đại tự viện này, ngoài Ngài ra, sau này còn có 5 vị cũng đã thi đậu, thông thuộc và vượt qua tất cả các kỳ khảo hạch Tam tạng).

 

Với mục tiêu phát triển chương trình học thuộc lòng Tam tạng được lan truyền đến nơi khác, Đại trưởng lão Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa thành lập một Đại học viện tên là  Tipiṭakamahāganthavaṃsanikāya tại thủ đô Yangon để cho các cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch với Tam bảo có cơ hội tốt làm phước thiện các thứ vật dụng cần thiết, cúng dường đến chư tỳ-khưu ngày đêm đang nỗ lực theo học Tam tạng. Đại trưởng lão còn đảm nhiệm hỗ trợ tại các học viện như: học viện Chaṭthatipitaka Shwe-ukkaṃpariyatti, Yangon; học viện  Tipiṭakasantāvāsapariyatti, Mandalay.

Ngoài lãnh vực trên, Đại trưởng lão Sayadaw Vāyāmindābhivaṃsa còn quan tâm đến các công tác từ thiện xã hội như xây dựng các trường học, bệnh viện, viện dưỡng lão… để giúp đỡ dân chúng.

 

Địa vị cao quí:

 

Đại trưởng lão Tam tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa là bậc có đầy đủ giới đức, định đức, tuệ đức, xứng đáng tôn kính nên chính phủ Myanmar đã phong tặng Ngài danh hiệu cao quý là: “Aggamahā-paṇḍita: Bậc tối đại thiện trí” vào năm 1999 - mặc dù vào thời điểm ấy tuổi hạ của Ngài chỉ ở con số 24, tuổi đời là 44 tuổi!

 

Phần tiểu sử của Ngài Đại trưởng lão Thủ trì Tam tạng Sayadaw Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa ở trên chỉ là tóm lược một số điểm trong sự nghiệp lớn lao của Ngài. Dù chỉ một phần nhỏ như vậy nhưng cũng đủ làm cho chúng ta cúi đầu kính phục, tôn sùng vì cuộc đời và sự nghiệp của Ngài đã đóng góp vào sự bảo tồn, duy trì giáo pháp của Đức Phật Gotama thật sự! Việc chính phủ Myanmar phong tặng Ngài danh hiệu:  Tipiṭakadhara Dhamma-bhaṇḍāgārika: Bậc Thủ trì Liễu thông Tam tạng, Bậc Thủ khố Chánh Pháp” quả xứng danh!

Tổ đình Bửu Long
Phường Long Bình, Quận 9,
Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam.
(Ngày 18−10−2008)
 
Trở lại     Đầu trang