Hỏi Đáp Phật Pháp
Thông báo:
Trong một thời gian dài, mục Hỏi Đáp Phật Pháp của trang web đã nhận được rất nhiều câu hỏi của Phật tử từ khắp nơi gởi đến. Thầy Viên Minh đã trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến vấn đề học Pháp, hành Pháp. Hiện tại mục Hỏi đáp đã có khoảng hơn hai mươi ngàn câu hỏi đáp, trong đó Thầy đã chỉ ra cốt lõi của việc hành đạo, sống Thiền. Do vậy Thầy đã quyết định tạm ngưng mục Hỏi đáp trong một thời gian để có thể chuyên tâm làm các Phật sự cần thiết khác.
Vậy, nếu có nhu cầu, Quý vị có thể sử dụng mục Tìm kiếm bên dưới (gõ từ khoá) hoặc bấm vào các tag đã được gắn theo từng chủ đề để tham khảo các câu Hỏi - Đáp về vấn đề của mình hoặc tương tự.
Sadhu sadhu lành thay!
Danh mục Hỏi Đáp Phật Pháp
Câu hỏi:
Thưa thầy, con đã thỏa mãn với câu hỏi trước về sinh là khổ và sinh ở đây không phải là sinh nở mặc dù sinh nở cũng là khổ. Vậy xin thầy hãy giải thích cho con cái khổ thứ hai "già là khổ". Con xin cảm ơn!
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Sinh lão bệnh tử là ám chỉ luân hồi sinh tử. Vì vậy, nói sinh lão bệnh tử, sinh trụ dị diệt hay thành trụ hoại không thì cũng cùng một nghĩa tương ứng với những sự kiện khác nhau mà thôi. Nếu con đã hiểu sinh thì già, bệnh, chết cũng đều nói lên tính vô thường biến hoại của tất cả pháp hữu vi duyên hợp. Nhất là nhấn mạnh hữu vi tâm lý tức phản ứng tạo tác của tâm. Khi vô minh, không định tĩnh sáng suốt để thấy sự thật (thực tánh pháp) thì liền phát sinh ý muốn trở thành (ái dục), trong ý muốn này nội hàm hai đối cực: muốn thoát tình trạng hiện tại (sân), muốn lặp lại tình trạng quá khứ hay đạt đến trạng thái ảo ở tương lai (tham). Ý muốn trở thành thúc đẩy ý chí (thủ) cố gắng tạo tác để trở thành (hữu). Đây chính là toàn bộ nguyên nhân của sinh - lão tử mà chúng ta thường gọi là luân hồi sinh tử. Hình tướng già nua, bệnh tật chỉ là biểu hiện bên ngoài của bản chất biến hoại vô thường do hữu vi tạo tác. Cũng cần nhận ra rằng vì lâm vào giữa hai đối cực tham và sân mà đánh mất thực tại để thấy biết rõ ràng minh bạch. Đó chính là mê muội bất an (si) làm cho vô minh ngày càng được củng cố sâu dày. Sở dĩ thầy không chỉ giải về khổ già một cách cục bộ mà nói dài dòng như vậy để con thấy nó trong toàn cảnh mà con có thể chiêm nghiệm nơi chính mình, chứ không phải chỉ thu thập kiến thức về những mảnh vụn cô lập.
Câu hỏi:
Kính bạch Sư ông! "Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ". Nhờ vậy mà con "Có duyên đối diện tỏ ngộ liền." (Nhưng chắc con ngộ chút ít thôi, hihi)
Con thật sự cám ơn Sư ông và quý độc giả của trang website này, vì thông qua các câu hỏi và lời đáp rõ ràng con học tập được nhiều điều đáng quý.
Cách đây không lâu con có dự khoá giảng thiền của Sư ông, tâm con rất hoan hỷ. Đến ngày cuối của buổi học sau khi ra khỏi cổng chùa, con tự nhủ: "Dù cho có nhiều luận giải hay đến đâu đi chăng nữa cũng là ảo vọng thôi, nếu hôm nay con không có nhân lành thì sẽ không bao giờ nghe được những lời chân thực như thế" Rồi tự nhiên con cảm hứng thốt lên 2 câu như thế này: "Kiến giải bất vi vô vọng giả. Vô nhân bất biến mặt anh tài."
Bạch sư ông, con không hiểu câu này có diễn đúng ý của con không? Thật sự con không hiểu chữ Hán nhiều lắm! Kính mong sư ông chỉ dạy thêm.
Sư ông biết không! Sau buổi tối đó trên đường về con gọi điện thoại cho sư Bửu Phước để hỏi nhưng sư bảo là hỏi Sư ông hay hơn. Con không dám làm phiền sư ông, nhưng hôm nay đành làm phiền Sư ông vậy. Con cám ơn Sư Ông. Chúc Sư Ông Thọ Thọ.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Con thấy ra những gì sư ông giảng là sư ông không phí công vô ích rồi. Cám ơn con nhiều lắm. Hai câu cảm hứng ngữ của con ý thật hay, chỉ cần sửa và sắp lại vài chữ cho đúng ngữ pháp là hơn cả tuyệt vời đó con. Sư ông đề nghị như sau:
"Tri kiến vô vi bất vọng giả. Vô vi tất diện bản lai nhân". Nghĩa là: Thấy biết không do tâm tạo tác thì không phải là vọng, tâm không tạo tác hẳn gặp lại con người thật nơi chính mình. Không biết như vậy có đúng ý con chưa? Có thể là con muốn nói nhờ duyên học Đạo với sư ông mà thấy ra chánh pháp nên con kính trọng sư ông, nhưng sư ông sửa lại một tí với ý nghĩa là qua chánh pháp đó nhờ tâm con không tạo tác nên thấy ra thực tánh nơi chính mình. Nếu hiểu được chánh pháp nhưng tự mình không thấy pháp thì chỉ cách một tí thôi vẫn còn vọng đó con ạ.
Câu hỏi:
Thưa thầy, trong kinh Niệm xứ thường lặp lại: "vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm." Thưa thầy đã an trú chánh niệm rồi sao còn phải "hướng đến" chánh niệm nữa ạ? Như vậy chẳng phải giống như tìm cái mình cần tìm trong khi nó đang nằm trong tay không ạ?
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Câu hỏi của con thật thật tuyệt vời. Từ lâu mỗi lần giảng đến đoạn kinh trên thầy đều phải đính chính cụm từ "với hy vọng hướng đến" này. Cụm từ này có nguyên văn Pàli như sau: "...yàvad eva ñàna-mattàya patissati-mattàya". Yàvad eva có nghĩa là "tới...cần thiết" hay "vừa đủ" (as much as it is necessary). Mattàya có nghĩa là với mức độ. Vậy cụm từ trên dịch là: "Với mức độ niệm tuệ vừa đủ". Do đó đoạn kinh trên nên được dịch là: "Vị ấy an trú niệm như vậy với mức độ tuệ tri và ức niệm vừa đủ". Bởi vì chánh niệm tỉnh giác dư hay thiếu đều không thể thấy được thực tánh pháp. Trong cụm từ Pàli trên không hề có một dấu hiệu nào là "với hy vọng hướng đến" cả. Đọc kinh nhất là đọc bản dịch thật nguy hiểm, vì tam sao thất bổn, do đó cần đối chiếu với nguyên văn và nhất là đối chiếu với sự thật tự mình thực chứng mới đúng được.
Câu hỏi:
Thưa thầy, trong kinh Niệm Xứ có nói đến quán thọ trên nội thọ, quán thọ trên ngoại thọ và quán thọ trên nội ngoại thọ. Con thắc mắc ngoại thọ ở đây là gì? Có phải là cảm thọ của người khác không? Và nếu là cảm thọ của người khác thì chỉ người khác cảm nhận được chứ ta làm sao có thể quán được? Xin thầy giải đáp. Con xin cảm ơn.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Khi thấy người khác có cảm thọ khổ biết đó là cảm thọ khổ. Vì một người biết rõ cảm thọ khổ nơi tự thân thì cũng dễ dàng thấy rõ cảm thọ khổ nơi người khác. Cảm thọ khác nhau trên hiện tướng của mỗi người nhưng vẫn giống nhau trên thực tánh, vì vậy không cần cảm nhận trên hiện tướng vẫn thấy được thực tánh. Ngay cả khi quán thọ bên trong tự thân cũng không cần quan tâm đến hiện tướng mà chỉ thấy ra thực tánh mà thôi. Nếu không thấy rõ điều này mà niệm thọ thì chỉ thấy tướng chứ không thể nào thấy tánh được.
Câu hỏi:
Xin thầy giải thích vắn tắt cho con cái khổ đầu tiên trong Khổ Đế: sinh là khổ. Con xin cảm ơn ạ.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Sinh là khổ do nghiệp tạo tác (hữu), nghiệp tạo tác là do dính mắc (thủ) ý muốn trở thành (ái), ý muốn trở thành do vô minh. Như vậy sinh là quả của vô minh, ái dục và tác nghiệp, vì vậy nó dẫn đầu trong các quả khổ sinh, lão, bệnh, tử cùng với sầu, bi, khổ, ưu, não. Chữ sinh ở đây không ám chỉ việc sinh nở, mặc dù sinh nở cũng là khổ.
Câu hỏi:
Thưa Thầy! Con có hùn phước cất chùa. Một Cô tu nữ khuyên con nên thường xuyên niệm tưởng phước thí ấy, nhưng con không có kinh nghiệm thực tập niệm thí. Xin thầy dạy cho con một số gợi ý về phương pháp thực tập niệm thí để con có thể ứng dụng. Con xin cám ơn thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Niệm thí là nhớ lại một việc thiện đã làm trong quá khứ với mục đính tự nhắc mình luôn hoan hỷ với điều thiện. Trong đời sống không phải ai cũng có thể chỉ làm thiện mà không làm ác, vì vậy nhắc lại điều thiện đã làm để luôn an trú thân tâm trong thiện pháp, vì nhớ lại điều thiện cũng chính là một hành động của thiện tâm, dù lúc đó con không làm được một việc thiện gì bên ngoài như san sẻ, cúng dường, phục vụ v.v... Nhất là khi tâm con đang có chiều hướng bất thiện thì việc nhớ lại điều thiện để tự nhắc mình không rơi vào việc ác thì rất tốt. Tuy nhiên, không nên nhớ lại việc thiện với tâm tự mãn, ngã mạn, thấy mình có công đức v.v... vì cái tâm nhớ đó là bất thiện. Trong trường hợp đó quên đi có khi tốt hơn. Nếu một người tâm luôn an trú trong thiện pháp, thường làm việc thiện thì nên chú tâm vào việc thiện hiện tại hơn là nhớ về điều thiện trong quá khứ. Và trường hợp người sống chánh niệm tỉnh giác thì chẳng cần phải nhớ gì trong quá khứ cả, dù là quá khứ thiện hay bất thiện.
Câu hỏi:
Thầy dạy: "Chỉ nên thư giãn, buông xả và theo dõi động tác thở một cách hoàn toàn tự nhiên thì lập tức chánh niệm tỉnh giác tự ứng khởi, an lạc cũng liền phát sinh, mà không tầm cầu hay ham muốn sở hữu điều gì". Đây có phải là "định tuệ đẳng trì" không thưa thầy? Cứ vậy mà tu là đúng yếu chỉ của thiền quán?
Cảm ơn thầy vì lời dạy giản dị, rõ ràng, cốt tuỷ và xác thực!
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Cũng không cần gọi tên động thái đó là gì vì như vậy lại rơi vào ý niệm và kết luận. Chỉ cần thể nghiệm và thực chứng điều đó thì con tự thấy biết pháp một cách chân thực mà không cần đặt tên hay so sánh trạng thái đó với bất cứ cái gì khác, bởi vì ngay khi mình toan đặt tên hay so sánh thì pháp vừa mới hiển lộ liền bị che lấp mất rồi. Thầy hoan hỷ khi thấy con đã nhận ra được điều cốt lõi này.
Câu hỏi:
Thưa thầy. Con tập niệm hơi thở khi ngồi con cảm thấy rất khó thở một cách tự nhiên nếu không dựa lưng vào một nơi nào đó như tường, thành giường. Và nếu ngồi bán già hay kiết già thì hơi thở lại càng không tự nhiên và nặng nề hơn nữa, các cảm thọ đau nhức và căng cứng các cơ như "thắt" lồng ngực mình lại. Vậy thì con cứ ngồi thả lỏng, hoặc ngồi ghế chân chạm đất, hoặc nằm không cần ngồi bán già kiết già để niệm hơi thở có tốt không ạ?
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Thiền theo yoga hay khí công thì ngồi kiết già, bán già và thẳng lưng có nhiều lợi thế vì liên hệ tới việc điều thân, điều khí. Nhưng thiền Phật giáo chú trọng ở tâm hơn nên không nhất thiết phải ngồi như vậy, ngồi sao dễ chịu, thoải mái là được, thậm chí không ngồi mà đi, đứng, nằm cũng vẫn tốt. Tuy nhiên nếu làm quen được với thế ngồi trang nghiêm ngay ngắn thì khi tham dự khoá thiền tập thể vẫn ngồi chung được với mọi người mà không bị xem là lập dị. Muốn ngồi kiết già dễ dàng không phải đợi ngồi thiền mới tập mà nên tập khi có cơ hội, ví dụ như khi ngồi học bài, đọc sách, ăn cơm v.v. dần dần vượt qua được cái đau gây căng thẳng lúc đầu và thấy ngồi như vậy thoải mái hơn.
2) Thiền hơi thở trong Phật giáo có mục đích dẫn tâm trở về thực tại tự thân không để tâm đi lang thang, mơ mộng và chìm đắm bên ngoài nữa. Nhưng không phải vì vậy mà quá tập chú vào hơi thở, quá cố gắng định tâm và cố điều tiết hơi thở, vì làm như vậy thực ra cũng là một loại lang thang khác muốn mượn hơi thở để tìm cầu sở đắc. Cố gắng này sẽ đưa đến căng thẳng, khó thở và co thắt cơ ngực, cơ bụng hoặc nhức đầu, thậm chí nếu tham vọng và ý chí quá cao có thể đưa đến tình trạng "tẩu hoả nhập ma". Chỉ nên thư giãn, buông xả và theo dõi động tác thở một cách hoàn toàn tự nhiên thì lập tức chánh niệm tỉnh giác tự ứng khởi, an lạc cũng liền phát sinh, mà không tầm cầu hay ham muốn sở hữu điều gì.
Câu hỏi:
Thưa hòa thượng! Các giác chi có thể xuất hiện trong người phàm phu thiện nhân tu tập niệm xứ không ạ? Hay nó chỉ xuất hiện trong bậc Thánh thôi? Nói cách khác, bảy giác chi có thể là hiệp thế hay chỉ là siêu thế mà thôi? Mong hòa thượng giải đáp cho con ạ.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Theo thầy thì Thất Giác Chi để dành cho người còn tu, tức từ người phàm đang tu thiền đến các bậc Thánh hữu học. Còn khi đã đắc Đạo Quả Alahán thì đã là bậc vô học thì không cần phải tu tâp Thất Giác Chi nữa. Con nên đặt những câu hỏi thiết thực trong sự tu tập hơn là chỉ thuần tuý phát triển kiến thức kinh điển. Dù con có biết thêm những điều này thì cũng không giúp ích gì cho sự giác ngộ thực tại. Trong thông báo về trang hỏi đáp này, thầy có nói mục đích là hướng dẫn tu tập thôi, còn về kinh điển thì đã có kinh sách và các lớp chuyên môn để con học hỏi tham vấn. Thầy xin lỗi vì không có thì giờ nhiều nên chỉ tranh thủ trả lời ngắn gọn thôi.Con thông cảm nhé.
Câu hỏi:
Xin Thầy giảng cho con hiểu 4 câu sau:
"Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính là đây."
Vì sao hiện tại lại quan trọng hơn tương lai và nếu không có quá khứ thì sao lại có hiện tại?
Cám ơn Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Mặc dù có quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến, chỉ còn pháp hiện tại là đối tượng thật sự đang hiện hữu để chúng ta có thể thấy biết, điều chỉnh hay xử lý mà thôi. Ví dụ khi con đi qua một cây cầu khỉ nếu con không thận trọng, chú tâm, quan sát vào hoàn cảnh hiện tại thì con sẽ bị té xuống mương ngay, lúc đó quá khứ tương lai không thể cứu con được.
Không phải hiện tại quan trọng hơn quá khứ tương lai, nhưng quá khứ chỉ có thể là bài học kinh nghiệm cho hiện tại, còn tương lai thì lại tùy thuộc vào những gì chúng ta đang làm trong hiện tại. Như vậy cần phải thận trọng, chú tâm, quan sát hiện tại để học ra bài học thiết thực của mình. Một học sinh cứ muốn học bài lớp trước, hoặc mong học bài lớp sau thì làm sao thông suốt được bài vở của mình trong lớp em đang học? Muốn có tương lai em ấy phải học bài học hiện tại ở lớp mình cho thông mới được.