Hỏi Đáp Phật Pháp
Thông báo:
Trong một thời gian dài, mục Hỏi Đáp Phật Pháp của trang web đã nhận được rất nhiều câu hỏi của Phật tử từ khắp nơi gởi đến. Thầy Viên Minh đã trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến vấn đề học Pháp, hành Pháp. Hiện tại mục Hỏi đáp đã có khoảng hơn hai mươi ngàn câu hỏi đáp, trong đó Thầy đã chỉ ra cốt lõi của việc hành đạo, sống Thiền. Do vậy Thầy đã quyết định tạm ngưng mục Hỏi đáp trong một thời gian để có thể chuyên tâm làm các Phật sự cần thiết khác.
Vậy, nếu có nhu cầu, Quý vị có thể sử dụng mục Tìm kiếm bên dưới (gõ từ khoá) hoặc bấm vào các tag đã được gắn theo từng chủ đề để tham khảo các câu Hỏi - Đáp về vấn đề của mình hoặc tương tự.
Sadhu sadhu lành thay!
Danh mục Hỏi Đáp Phật Pháp
Câu hỏi:
Đầu tiên con xin đảnh lễ Sư, xin kính chúc Sư cùng chư Tăng tổ đình được nhiều sức khỏe, vô lượng an lạc và Phật sự viên thành! Thưa Sư, con hiện nay đang dần dần tập chánh niệm tỉnh thức trong sinh hoạt hằng ngày, sống bình thản không mong cầu, không hoài tưởng, khi làm việc gì con cũng suy nghĩ xem thiện hay bất thiện có lợi mình lợi người không, tuy nhiên khi dẫn đến hành động thì đôi khi con lại có tạo tác ngược với cái nghĩ! Xin Sư chỉ dạy thêm cho con làm sao để tập làm chủ được hành động đúng theo ý nghĩ của mình! Con cám ơn Sư.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Trong thiền Vipassanà chánh niệm tỉnh giác thuộc chánh kiến tức trực giác, không phải thuộc tư duy, lý luận, nên khi suy nghĩ tính toán ra thiện, bất thiện v.v... trước rồi mới hành động theo sau thì hành động và tư tưởng khó có thể ăn khớp nhau, làm sao gọi là chánh niệm tỉnh giác được. Chánh niệm tỉnh giác là trực tiếp khám phá thực tại như nó đang là, chứ không phải đã là hay sẽ là. Mục đích của chánh niệm tỉnh giác là trả thực tại về với bản chất thật của nó, và chỉ thấy nó như thế nào thì nó là như vậy chứ không phải ghép nó vào một khuôn khổ đạo đức nào. Đạo đức cao nhất là thấy hành động đúng với bản chất thật của nó, từ đó khám phá ra thiện ác đúng sai ngay trên bản chất thật của nó, không qua tư tưởng lý luận.
"Tập làm chủ được hành động theo ý nghĩ của mình" là thái độ ý chí của bản ngã, trong khi chánh niệm tỉnh giác thật sự là thái độ hoàn toàn vô ngã của tánh biết rỗng lặng trong sáng tự nhiên. Thiền Vipassanà chính là ngay khi buông xuống mọi nỗ lực của bản ngã ý chí thì lập tức chánh niệm tỉnh giác tự ứng một cách tự nhiên chính xác từ tánh biết lặng lẽ trong sáng và vô ngã. Hãy nắm vững nguyên lý này rồi mới nên hành, nếu không lại rơi vào quỹ đạo của bản ngã vô minh ái dục.
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy! Đầu thư con xin kính chúc Thầy mạnh khỏe. Thầy vui lòng cho con hỏi: Trong thư của chị Như Trung, Thầy có chú giải thêm về pháp Tạ ơn Sám hối. Con có thực hành theo, nhưng con không hiểu rõ lắm về Thầy Tổ. Xin Thầy cho con biết Thầy Tổ là những vị nào ạ?
Và trong bài giảng 8b, khóa thứ 5, có một anh Phật tử nói Thầy đã dạy rằng: "Hãy sống thật bình thường với tâm hồn cởi mở trong sáng, tĩnh tại, mà thiền Vipassanà gọi là chánh niệm, tỉnh giác..." Con muốn đọc tài liệu đó của Thầy, thì có trên mạng không ạ?
Con kính cảm ơn Thầy.
Hạnh Nhiên
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Thầy Tổ nói chung là tất cả những vị thầy mà nhờ họ chúng ta nhận thức được pháp, như thầy dạy nghề, dạy chữ v.v... nhất là những vị thầy khai thị cho chúng ta thấy ra chân lý, nhờ đó chúng ta không còn si mê lầm lạc trong vô minh ái dục, sinh tử luân hồi.
Những khóa giảng thầy chưa ghi ra sách nên con tạm thời nghe trong Pháp Thoại hoặc thỉnh các đĩa giảng của thầy về nghe. Chúc con thấy ra được chánh pháp. Con có thể đọc Thực Tại Hiện Tiền và Sống Trong Thực Tại ở Thư Viện của trang Web này.
Câu hỏi:
Thưa thầy, năm mới con kính chúc Thầy cùng chư Tăng Ni được an lạc, tinh tấn trong tu tập. Bạch thầy, con nghĩ là thiền Vipassanà của Phật Giáo Nguyên Thủy với khán thoại đầu của Thiền Tông Trung Hoa có nhiều điểm giống nhau, nhưng con muốn hỏi là trong pháp hành thì "chánh niệm, tỉnh giác" và "khởi nghi tình" trong khán thoại đầu loại nào thù thắng hơn, mong Thầy chỉ dạy. Con kính lễ.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Mục đích của khán thoại đầu là dồn lý trí vọng thức (hữu ngã) vào ngõ cụt "bất khả tri" để tánh biết "tri bất tri thượng" (vô ngã) xuất hiện nguyên vẹn phản ánh trung thực toàn diện các pháp nên gọi là kiến tánh hay ngộ. Trong khi chánh niệm là tâm không vọng niệm, trọn vẹn với thực tại ở đây và bây giờ, nên tâm vô niệm, không lăng xăng tạo tác, rỗng lặng trong sáng, thấy rõ thực tánh pháp chân đế nên gọi là Vipassanà (minh kiến) hay thấy pháp (pháp nhãn). Đó là lý do tại sao Tổ Huệ Năng dạy lấy VÔ NIỆM để kiến tánh.
Vì tham công án là phương tiện thiện xảo đặt ra sau thời Tổ Huệ Năng nên không trực tiếp vô niệm mà lấy nghi tình làm "thời kỳ quá độ" để chuyển từ cái biết hữu ngã hữu niệm phân biệt của lý trí qua tánh biết vô ngã, vô niệm, vô phân biệt của tuệ giác mà hiệu ứng của nghi tình là sự bùng vỡ của ngộ. Còn chánh niệm tỉnh giác chính là vô niệm trực tiếp ứng ra từ tánh biết rỗng lặng trong sáng nên tự nó trọn vẹn với thực tánh chân đế.
Tóm lại, tham công án là phương tiện gián tiếp phải trải qua thời gian nghi tình đế kiến tánh, còn chánh niệm tỉnh giác là tự thân tánh giác thấy thực tánh chân đế không qua phương tiện nào. Tuy nhiên đó là nói chánh niệm tỉnh giác hay vô niệm đích thực thời kỳ tiền công án, còn hiện nay không ít trường phái thiền đã đưa chánh niệm tỉnh giác xuống mức độ nỗ lực tạo tác của bản ngã thì lại không bằng tham công án để loại cái ngã vọng niệm trước rồi mới thấy tánh sau, vì như vậy sẽ ít bị nguy cơ rơi vào sở đắc của bản ngã, khi chưa thực sự chánh niệm tỉnh giác.
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, nhân dịp đầu năm, con xin kính chúc Sư luôn được dồi dào sức khỏe, vạn sự cát tường. Thưa Sư, quả vị Tu-đà-hườn có dễ chứng không ạ, khi vị đó chứng đắc thì dấu hiệu là như thế nào và vị ấy có biết không? Con xin tri ân Sư.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Không phải chỉ Đạo Quả Tu-đà-hoàn mà cả 4 bậc Thánh cũng đều có dễ có khó. Đối với người hội đủ nhân duyên thì dễ, người không hội đủ nhân duyên thì khó, chứ bản thân các quả chứng đều không khó cũng không dễ. Vị đã loại bỏ được 3 kiết sử: 1) Không còn tà kiến xem thân tâm là bản ngã, nên không còn tâm tham tương ưng với tà kiến. 2) Không còn phân vân nghi hoặc đối với thực tánh pháp nên không còn tâm si tương ưng với nghi. 3) Không còn câu nệ hình thức nghi lễ hay giới cấm nên giới tánh rất trong sạch nhưng không chấp giới tướng và các nghi lễ chế định. Vị Tu-đà-hoàn còn được gọi là "Tịnh tín bất động nơi Tam Bảo" nên Tam quy và Ngũ giới hoàn toàn trong sạch. Vị ấy thấy rõ những thực tánh pháp trên nhưng có thể không biết đó là Tu-đà-hoàn, vì đó chỉ là tên gọi mà đức Phật chế định để xác nhận trình độ chứng ngộ của hành giả chứ không phải là thực tánh pháp mà vị ấy chứng ngộ.
Câu hỏi:
Nhân dịp năm mới, con xin chúc thầy một năm mạnh khỏe, an lành. Vừa rồi con có nghe khóa giảng lần 5 của thầy qua trang web, thực sự con thấy vô cùng bổ ích. Trong bài giảng thầy có nói tu là quá trình điều chỉnh nhận thức. Theo con hiểu thì có phải nhận thức đó là thấy rõ sai lầm của tâm khi chấp thân này là thân ta, suy nghĩ này là suy nghĩ của ta v.v... không ạ? Đôi lúc con thấy rõ cái nghe, cái thấy mà không có ý niệm mình đang nghe, đang thấy. Nhưng sau đó tâm lại bị cuốn hút bởi suy nghĩ khiến cho tham sân si khởi lên. Hiểu biết con còn nông cạn nên chỉ có thể mô tả như thế. Có gì sai sót xin thầy chỉ dạy cho con. Con xin cảm ơn thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Khi thấy, nghe... rõ ràng mà không khởi lên ý niệm "ta nghe", "ta thấy"... là rất tốt. Điều này chứng tỏ rằng không có khái niệm "ta" thì vẫn nghe, thấy... được một cách chính xác, trung thực và rõ ràng, vì lúc đó tánh biết không bị cái "ta" ngăn ngại. Khi tâm bị cuốn hút theo suy nghĩ khiến tham. sân, si khởi lên mà vẫn biết được như vậy, lại một lần nữa chứng tỏ tánh biết có khả năng phát hiện cái ta tham sân si một cách dễ dàng. Biết phát huy tác dụng của tánh biết đó để thấy thực tánh pháp gọi là thiền. Thiền là thấy biết trực tiếp không qua ý niệm nên gọi là vipassanà hay kiến tánh. Vậy đơn giản chỉ là khi tâm rỗng lặng, trong sáng thì biết là rỗng lặng trong sáng, khi tâm bị tư tưởng, ý niệm ngăn che thì biết là bị ngăn che v.v... như vậy tức là đang sử dụng tánh biết để hóa giải ảo tưởng "ta" và "của ta". Đó chính là quá trình điều chỉnh nhận thức và hành vi vậy.
Câu hỏi:
Mỗi dịp Tết đến, nhà con lại được khách tặng cho nhiều gà, vịt sống. Mỗi lần mẹ hay em gái nhờ con cắt tiết gà hoặc giữ chân gà để cắt tiết con đều từ chối, lý do vì thương hại con gà. Mỗi lần như thế mẹ con lại bảo "thương hại vớ vẩn" và "mấy cái việc này con trai phải làm chứ cứ để phụ nữ làm sao được". Mẹ con không theo đạo Phật cũng không theo tôn giáo nào. Con phải cư xử hay đối đáp thế nào trong trường hợp này thưa Thầy?
Chúc Thầy năm mới mạnh khoẻ, an lạc.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Trước khi muốn thuyết phục người thân trong gia đình không sát sanh thì việc đầu tiên là con phải dứt khoát từ chối sát sanh để nuôi mạng và cố gằng tìm hiểu, chiêm nghiệm xem tại sao không nên sát sanh. Nếu con thuyết phục được chính mình không sát sanh với những lý do chính đáng như: tôn trọng sự sống, loại trừ lòng ích kỷ, phát triển tình thương yêu, hiểu biết luật nhân nào quả nấy, nghiệp báo trả vay, oan oan tương báo v.v... thì con sẽ biết triển khai thế nào để thuyết phục người thân không sát sanh một cách dễ dàng. Luật pháp ở một vài nước văn minh như ở Australia không cho phép người dân tự giết thú vật, trừ những cơ sở được cấp giấy phép hành nghề. Ở Úc thú vật là một trong bốn loại được tôn trọng hàng đầu cùng với cây cối, trẻ em và phụ nữ. Thật đáng buồn, trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam mình là nước còn nhiều người săn bắn và giết chóc chim thú bừa bãi nhất, chẳng một chút thương yêu tôn trọng sự sống của muôn loài! Không tôn trọng sự sống của muôn loài là không tôn trọng sự sống của chính mình.
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, đầu tiên con kính chúc Thầy sức khoẻ. Con xin phép được hỏi Thầy một câu hỏi. Con có nghe nhiều người nói về Thiền và Yoga. Có người nói rằng Yoga bao quát hơn Thiền, thiền có trong Yoga. Vậy nói rằng Yoga bao quát hơn thiền có đúng không ạ? Xin Thầy chỉ cho con để con có thể hiểu rõ thêm về sự khác nhau giữa thiền và yoga cũng như mục đích của nó.
Con xin cảm ơn Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Cái này thì khó nói lắm, bởi khi so sánh là đã rơi vào khái niệm rồi, mà khái niệm thuộc tục đế, do quy ước của cá nhân hay xã hội thế gian. Khái niệm quy ước là gán cho cái gì đó một ý nghĩa mà người ta "nghĩ" là thế, chứ chưa hẳn là thế! Cho nên có "tôi nghĩ thế" hay "tôi cho là thế". Ở đời ai mà chả quy ước cho cái của mình là đúng là hay hơn của người khác. Nhưng luật tục đế muôn đời vẫn là: "Lý của kẻ mạnh luôn luôn thắng", vì vậy trong thế gian này, nếu kẻ mạnh nói họ đúng hơn thì tốt nhất là đừng cãi lại, còn nếu kẻ yếu nói thì mỉm cười là đủ rồi, hơi đâu mà tranh chấp hơn thua, bởi giữa đời này hơn thua không nói lên được sự thật như nó đang là. Khổ một nỗi bản chất thật của pháp thì vượt ngoài khái niệm sai - đúng, hơn - thua, làm sao mà so sánh được đây?
Do vậy, đức Phật mới dạy trong kinh Kalama là hãy cứ thực nghiệm đi rồi biết thực sự nó ra sao chứ không nên "tin là...", "cho là...", "nghĩ là..." Vậy thực nghiệm để biết gì? Để biết rằng: Điều này là tạo tác của bản ngã tham sân si (Tập đế) đưa đến sầu-bi-khổ-ưu-não (Khổ đế), điều này là chánh trí không do bản ngã tham sân si tạo tác (Đạo đế) nên không còn sầu-bi-khổ-ưu-não (Diệt đế: Tịch tịnh Niết-bàn, Không, Vô tướng, vô tác, vô nguyện). Do đó pháp này thuộc chân đế, được các bậc Thánh goi là pháp VÔ TỶ, không thể nào so sánh được. Vậy con nói làm thế nào mà thầy so sánh với cái gì được đây?
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Con đọc kinh sách ít, nên thấy không chắc mình hiểu đúng ý nghĩa chữ NHƯ trong cụm từ CHÂN NHƯ và VẠN PHÁP NHƯ THẬT. Thưa Thầy, có phải vì ta không thể nói "vạn pháp là thật" (vì "thật" sẽ phải đối đãi với "giả", mà cả thật lẫn giả đều không đúng) nên phải nói là "như thật"? Và có phải NHƯ THẬT là NHƯ VẬY ĐÓ, NHƯ NÓ ĐANG LÀ không ạ? Kính xin Thầy giảng rõ giúp con chỗ này.
Trân trọng cám ơn Thầy.
Ngọc Thu
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Như thật hay chân như được dịch từ yathàbhùta trong ngôn ngữ Pàli, dịch ra tiếng Anh là: As it is being, Hán dịch là "Như thị", nên nhiều người ưa dịch ra tiếng Việt khá chính xác là "Như nó đang là" hay "Nó là như vậy". Như thật hay chân như ám chỉ thực tánh pháp (sabhàva) hay chân nghĩa pháp (paramattha) tức bản chất thật của pháp chứ không phải là khái niệm mà chúng ta có về pháp, cho nên nói "Như nó đang là" hay "như thị" đúng hay sai còn tùy thái độ nhận thức nữa.
Xét cho cùng nghiều người vẫn còn nhầm lẫn giữa hai loại như thị (như nó đang là): Như thị tướng (that is being) và như thị tánh (what is being). Trong Pàli Abhidhamma cái gọi là như thị tướng có thể chỉ là vât (nghĩa) khái niệm bởi vì ngay khi thấy một vật gì thì chỉ mấy sát-na đầu tiên còn là như thị, nhưng sau đó khái niệm liền xen vào nên nó không còn là như thị tướng thật sự nữa mà đã trở thành vật khái niệm rồi. Chỉ khi nào thật sự chánh niệm tỉnh giác mới thấy như thị hay như nó đang là mà thôi.
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con đã có duyên may được đến nghe Thầy giảng Thiền (Khóa thứ 5 tại Tổ đình Bửu Long) vừa qua, con vô cùng cảm ơn Thầy đã khai thị cho con một số không ít những vấn đề về Phật pháp. Nay con có một thắc mắc này, xin Thầy vui lòng chỉ bảo, giải thích giúp con:
Thưa Thầy, đọc qua một số kinh sách Bắc Tông, con thấy các vị Bồ-tát thường có hạnh nguyện: "Khi nào chúng sinh chưa được độ tận thì ta chưa thành Phật", hoặc khi đã thành Phật thì nguyện rằng: "Khi nào chúng sinh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới Sa-bà này để độ chúng sinh qua bến giác". Thưa Thầy, theo con hiểu thì khi những hạnh lành (Bồ-tát) hay tánh biết (Tánh Giác, Phật) nơi ta khai mở thì ta sẽ có từ bi, trí tuệ... tương ứng, và vấn đề hạnh nguyện chỉ là một cách diễn dịch của người đời bằng khái niệm hình tượng, ngôn từ mà thôi. Hoặc những người còn mê muội như chúng con, trên con đường học Phật, cần nói như vậy để khuyến khích phát triển hạnh nguyện hầu tiến dần đến khai mở tánh biết và hạnh lành. Còn nếu nhìn bằng nhãn quan nhị nguyên hoặc xét từ góc độ của quy luật âm dương thái cực, thì chẳng lẽ Phật và Bồ-tát cũng vẫn còn luân hồi sinh tử, vì mọi sự vật hiện tượng khi đã đạt mức cực dương thì sẽ chuyển sang âm: giống như khi ta đã đạt được quả vị Phật rồi thì lại trở xuống làm chúng sinh. Nói cách khác, khi nào còn "Ma" thì còn "Phật" (mà cuộc sống thì chẳng bao giờ hết "Ma" nên nếu hiểu thế giới theo kiểu nhị nguyên đối đãi: luôn có sai có đúng, có Ma có Phật, có yêu có ghét...), và chỉ khi nào không còn bản ngã tham sân si thì mới thấy thế giới như thực tánh, không còn thấy Ma thấy Phật nữa mà thôi.
Con xin tóm lại, điều con muốn hỏi là phải chăng từ Phật trong quan niệm này là chỉ cho tánh giác và Bồ-tát là ám chỉ cho hạnh từ bi, trí tuệ... Khi khai mở được tánh biết(Phật) và các hạnh làmh (Bồ-tát) đến tột độ thì chỉ thấy từ bi, trí tuệ... không còn thấy ma thấy Phật, thấy sinh thấy tử nữa. Chứ Phật và Bồ tát nếu còn thị hiện một cách hữu vi như chúng sinh thì vẫn luân hồi sinh tử như thường, có phải không ạ?
Thành kính cảm ơn Thầy.
Ngọc Thu
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Giáo lý nguyên thủy của đức Phật hầu như không đề cập đến những vấn đề Phật và Bồ-tát thị hiện cứu độ chúng sanh theo kiểu đó. Quan niệm này mãi đến 600 năm sau đức Phật nhập diệt mới phát sinh trong các Hệ Phái Phật Giáo phát triển. Đến hơn 1.100 năm sau đức Phật Niết-bàn, Thiền Tông Đông Độ ra đời, vị Tổ thứ 6 là Ngài Huệ Năng đã xác định lại "độ chúng sanh" là vượt qua vô số phiền não phát sinh trong tâm (Tự tánh chúng sanh vô biên thệ nguyện độ). Bởi vì một số Luận Phái phát triển đã biến Phật Pháp thành triết học và tín ngưỡng để đáp ứng yêu cầu sở tri và sở đắc của con người, hơn là chú tâm vào việc hóa giải những khổ đau bức thiết trong hiện tại, như tinh thần giác ngộ giải thoát ban đầu của đức Phật.
Bồ-tát theo nghĩa nguyên thủy là người biết sử dụng tánh giác để giác ngộ và giải thoát khỏi cái ta ảo tưởng. Chính cái ta ảo tưởng này tạo ra "vô số chúng sanh phiền não đau khổ trong tâm" mà chủ yếu là phát xuất từ vô minh ái dục, cụ thể như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến v.v. Chính những "chúng sanh" này là hiện thân của đau khổ và tạo ra đau khổ cho mỗi người, vì vậy đối với bất cứ ai khi chưa "độ tận" chúng sanh (vượt qua phiền não) trong tâm mình thì có muốn thành Phật cũng không được, nên muốn giải thoát thì phải phát hạnh nguyện độ thoát phiền não (bản ngã chúng sanh) chứ đâu còn cách nào khác! Đối với chúng sanh bên ngoài thì người giác ngộ có thể chỉ đường cho họ để họ tự đi chứ không ai độ ai được.
Còn nói Phật thị hiện theo kiểu "Khi nào chúng sanh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới ta-bà để độ chúng sanh qua bến giác" thực ra chỉ có nghĩa là khi nào còn xem thân ngũ uẩn này là bản ngã thì còn "chúng sanh phiền não khổ đau" nên gọi cái ta ngũ uẩn là thế giới sa-bà. Lúc đó chỉ còn trông cậy nơi tánh giác quay trở lại (chánh niệm) soi sáng mới mong phá trừ mọi vọng niệm (tỉnh giác) của cái ta ngũ uẩn đó để cứu thoát thực tại thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) ra khỏi cái ta ảo tưởng tạo tác khổ đau sinh tử mà thôi. Vì vậy câu nói trên có thể hiểu như sau: "Khi nào còn phiền não khổ đau (chúng sanh khổ), thì tánh biết phải nguyện quay lại nơi thân ngũ uẩn này (thế giới sa-bà) để hóa giải cái ta ảo tưởng trở về với thực tánh pháp"
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy!
Con có một người quen, cô ấy sống vô cùng hạnh phúc, tài vật trên thiên hạ không thiếu thứ gì, con cái đề huề, gia đình sung túc. Thế nhưng chồng cô ấy đột ngột ra đi. Do tình yêu thương quá sâu nặng, đã ba năm nay, ngày nào cô ấy cũng nhìn di ảnh của chồng và khóc đến nỗi đôi mắt đã mờ và gần như muốm mù. Gia đình bạn bè khuyên can mà không thể giúp được cô ấy. Con xin Thầy chỉ cho con khuyên cô ấy ra sao để cô ấy bớt đau khổ. Con cảm ơn Thầy
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Có lẽ con không nên khuyên lơn gì cả. Con chỉ nên thương yêu thông cảm và giúp đỡ bạn ấy là đủ rồi. Khổ đau cũng có giá trị nhất định của nó. Chính nỗi khổ là lời khuyên tốt nhất để bạn ấy hiểu ra chính mình. Vấn đề không phải là bớt khổ hay hết khổ, quan trọng là có thấu hiểu được thông điệp mà nỗi khổ đó thì thầm ngày đêm với bạn ấy hay không. Nếu có khuyên thì chỉ nên khuyên bạn ấy lắng nghe lại nỗi khổ của mình để thấy ra ý nghĩa đích thực và sâu xa của nó. Khi lắng nghe lại nỗi khổ của mình, bạn ấy đã đưa tâm về với thực tại, tâm càng trọn vẹn với thực tại càng giảm dần những hoài niệm quá khứ. Như vậy không những thoát ra khỏi vũng lầy của những kỷ niệm buồn đau quá khứ mà còn thấy ra được bản chất thật của nỗi khổ niềm đau. Rồi có một ngày, khi nhân duyên đầy đủ, tâm hoàn tỉnh lại, thấy ra mọi lẽ thật vô thường, khổ và vô ngã của cuộc sống, bạn ấy sẽ không bao giờ mắc phải sai lầm mà chính tâm trí mình đã tạo dựng lên biết bao khổ lụy cho mình và cuộc đời như vậy nữa. Hãy để cho bạn ấy chiêm nghiệm nỗi đau của mình vì đã tạo ra khổ đau thì chỉ còn cách duy nhất là học ra bài học khổ đau đó để giác ngộ giải thoát mà thôi. Nếu con chỉ muốn giúp xoa dịu cơn đau của bạn ấy thì làm sao bạn ấy thấm thía được bài học giác ngộ của mình?