Hỏi Đáp Phật Pháp
Thông báo:
Trong một thời gian dài, mục Hỏi Đáp Phật Pháp của trang web đã nhận được rất nhiều câu hỏi của Phật tử từ khắp nơi gởi đến. Thầy Viên Minh đã trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến vấn đề học Pháp, hành Pháp. Hiện tại mục Hỏi đáp đã có khoảng hơn hai mươi ngàn câu hỏi đáp, trong đó Thầy đã chỉ ra cốt lõi của việc hành đạo, sống Thiền. Do vậy Thầy đã quyết định tạm ngưng mục Hỏi đáp trong một thời gian để có thể chuyên tâm làm các Phật sự cần thiết khác.
Vậy, nếu có nhu cầu, Quý vị có thể sử dụng mục Tìm kiếm bên dưới (gõ từ khoá) hoặc bấm vào các tag đã được gắn theo từng chủ đề để tham khảo các câu Hỏi - Đáp về vấn đề của mình hoặc tương tự.
Sadhu sadhu lành thay!
Danh mục Hỏi Đáp Phật Pháp
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con có 3 câu hỏi, kính xin Thầy chỉ dạy:
1. Ai cũng đi trên con đường lên núi để đến cứu cánh Niết Bàn rồi sau đó hóa độ chúng sinh như hạnh Bồ Tát. Con cũng kiên trì trên con đường nhưng nhìn xuống chân thì không thấy con đường đi nữa, và ngẩng nhìn lên cao cũng không thấy đỉnh núi. Ở trạng thái này thì phải làm thế nào đây?
2. Con cảm nhận dường như mình không có trái tim, không phải là mất cảm giác nhân tính, nhưng cũng không biết tại sao.
3. Ngày xưa nhìn lên trời cao thì cảm giác có chỗ đi về của mình, nhưng bây giờ nhìn lên trời cao thì không biết mình ở đâu nữa. Cảm giác này thật không biết tại sao?
Con thành kính tri ân Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Nhìn lên không núi cao
Nhìn xuống không đường lối
Giữa chẳng trái tim nào
Phải chăng còn cái thấy? (1)
2) Sở dĩ hỏi tại sao
Không còn trên còn dưới
Bởi tâm còn lao xao
Nên vẫn còn muốn biết! (2)
3) Đã không trên không dưới
Tim ở giữa cũng không
Thì sao ngay tại đó
Lại còn phải dụng công? (3)
* (1), (2), (3): Còn cái thấy, ý muốn biết và dụng công để hỏi "tại sao", "phải làm thế nào" thì TÁNH BIẾT vẫn còn bị che lấp. Buông ra thì không là gì cả mà cũng là tất cả. Lành thay!
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con nghe nói thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, tượng pháp là 1000 năm, và mạc pháp là 10.000.000 năm. Thời kỳ Chánh Pháp và tượng pháp thì còn có thể tu hành chứng quả, còn thời kỳ mạc pháp thì khó có thể chứng đắc và có thầy còn nói thời này là thời mạc pháp chỉ có thể niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ mới chắc chắn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Con rất là phân vân, xin Thấy từ bi gỡ rối cho con. Con thành thật tri ân thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Thời kỳ Chánh Pháp là thời gian còn giữ nguyên vẹn Giáo Pháp uyên nguyên của Đức Phật. Tuy 200 năm sau đức Phật Niêt-bàn đã có manh nha một vài kiến giải thay đổi nhưng không đáng kể. Mãi đến 600 năm sau Phật lịch thì mới có sự biến đổi lớn. Trong thời kỳ này nhiều bộ Kinh và Luận ra đời, chủ yếu là biểu hiện tư tưởng triết học và tín ngưỡng của các Luận sư hay Tổ sư. Sự phát triền này đã hình thành nhiều học thuyết và pháp môn phương tiện khác nhau cho phù hợp với căn cơ trình độ dị biệt của con người. Nội dung chính vẫn đúng với Pháp Phật nhưng phương pháp và cách lý giải có sai khác phần nào nên giai đoạn này được gọi là Tượng Pháp. Tượng nghĩa là tương tự như Chánh Pháp nên nếu hiểu đúng thì vẫn là Chánh Pháp, nhưng nếu hiểu sai thì liền rơi vào tà đạo. Nên chính các Tổ cũng cảnh báo là "Ly KInh nhất tự tức đồng ma thuyết". Từ Tượng Pháp giúp người sau lưu ý rằng vận dụng sáng tạo là tốt nhưng đừng để xa rời Chánh Pháp. Ứng theo lịch sử Phật Giáo thì đúng là thời kỳ Tượng Pháp kéo dài khoảng 1.000 năm, chấm dứt vào khoảng cuối thời kỳ Thiền Tông phân thành 5 phái.
Như vậy, đúng là khoảng 1.500 năm sau Phật Lịch thì Phật Giáo rơi vào thời kỳ Mạt Pháp. Mạt ở đây có nghĩa là nhánh ngọn. Nên trong thời kỳ này các Tông Phái chính phát xuất từ thời Tượng Pháp lại một lần nữa phân chia ra nhiều chi nhánh nhỏ, và mỗi trường phái này tự vận dụng ra phương pháp tu tập riêng theo vị đạo sư của mình. Chính vì sự phân chia nhánh ngọn này mà gọi là thời kỳ Mạt Pháp. Trong thời kỳ này, phần lớn không được học hỏi Chánh Pháp mà chỉ biết tu theo phương tiện của trường phái mình nên khó mà đạt được các bậc Thánh. Tuy nhiên trong thời kỳ này vẫn có những vị Tu-đà-hoàn sinh lại 7 lần, hoặc các vị Bồ-tát đang tu tập chơn chánh (chứ không hiểu theo nghĩa Bồ-tát cứu độ) duy trì Chánh Pháp của Phật, nên những người hữu duyên vẫn có thể tu học đúng Chánh Pháp, có hiệu quả rất cao, chứ không nên quá bi quan như vậy.
Tất nhiên những người căn cơ còn non yếu thì tu theo Mạt Pháp vẫn tốt, vì mạt chứ không phải là mạc theo nghĩa tàn tạ, hư đốn, nên nhánh ngọn mà tu cho đúng thì vẫn là thành phần của đại thọ Phật giáo. Phật giáo được ví như một cây cổ thụ. Gốc và thân gọi là Chánh Pháp, những cành lớn tương tự như thân cây chính nên gọi là Tượng Pháp, còn nhánh ngọn sum sê tươi tốt gọi là Mạt Pháp, chứ đừng hiểu thành Mạc Pháp là cây đã héo tàn mà bi quan yếm thế!
Câu hỏi:
Tp.HCM, ngày 28 tháng 12 năm 2010.
Kính thưa thầy! Đầu thư con xin chúc thầy luôn vui khỏe, tràn đầy trí tuệ để tiếp tục giáo dục, giúp đỡ, hướng dẫn chúng con trên bước đường tu tập giải thoát...
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Vì câu hỏi quá dài nên thầy sẽ đưa qua mục
Thư Thầy Trò trong Thư Viện - Văn để trả lời chi tiết hơn. Mục Hỏi Đáp có giới hạn nên không tiện trả lời dài, con hoan hỷ nhé!
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy. Có những người bạn con gặp bất an, nếu có duyên, con cũng khuyên họ hãy sáng suốt đón nhận những bài học cuộc sống, và sự an vui thực sự lại nằm chính trong nghịch cảnh cuộc sống chứ không phải ở đâu khác. Nhưng có những điều con nói ra, con chỉ nói theo nhận thức mà chính con chưa làm được. Vì thế, có những lúc đang nói, con khựng lại không nói được vì tự hỏi liệu có phải mình đang nói những lời trống rỗng. Con không biết phải làm sao. Chỉ trên cái nhận thức mà nói, dù là nói vì lợi ích của người khác có được xem là Chánh ngữ không thưa Thầy. Kính xin Thầy chỉ dạy cho con.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Chia sẻ nhận thức đúng với người khác vì tâm từ, không phải để khoe khoang, không tự tôn tự đại thì vẫn là thiện, vẫn không phải là tà ngữ. Có hai sự chia sẻ về Pháp là chia sẻ PHÁP HỌC, và chia sẻ PHÁP HÀNH. Khi con học được Pháp học đúng, con có quyền chia sẻ với người khác để họ cùng có nhận thức đúng, đó là chia sẻ pháp học. Khi con hành và thực chứng được hương vị của Pháp con đem chia sẻ với những người hữu duyên thì đó là chia sẻ Pháp hành. Biết đâu trong khuyên lơn an ủi người khác con cũng học ra bài học thực tế từ đó. Trong thời đức Phật có nhiều vị đắc Đạo Quả ngay trong khi đang giảng Pháp cho người khác. Ngay trong khi khuyên người khác con thấy ra được mình thì cũng là khuyên lại chính mình. Miễn là không khoác lác này nọ, mà chỉ là giúp người ta giải tỏa được mối bận tâm là được.
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy. 1. Theo con nhận thức được, pháp Thầy chỉ dạy luôn nhấn mạnh vào Tánh Thấy vốn đã sẵn có, đầy đủ nơi mỗi người. Cốt lõi của việc tu tập là buông bỏ cái bản ngã ảo tưởng che lấp để Tánh Thấy soi chiếu trọn vẹn dòng chảy của pháp. Tướng dụng cũng do tùy thời, tùy duyên mà tùy ứng từ tánh thấy, trực tiếp ngay trên mỗi pháp. Con có một điều thắc mắc: Chỗ Tánh Thấy này, nếu hiểu chệch đi một chút sẽ trở thành cái Đại Ngã của Bàlamôn giáo, dễ rơi vào Thường Kiến mà Đức Phật đã phê phán. Con chỉ cảm nhận được mà không biết diễn đạt ra sao ạ. Kính xin thầy giải nghi cho con.
2. Trong cuộc sống của con, khi con ứng dụng sáng suốt định tĩnh trong lành để sống trực tiếp trên pháp, con nhận thấy cuộc sống của mình là một vai diễn trong một vở kịch lớn, và nhiều lúc con thấy ngột ngạt khi phải đóng một vai diễn quá sức. Con nghĩ ý muốn thoát ra khỏi vai diễn đó cũng là bản ngã, mà cuộc sống là vậy không thể nào thoát ra khỏi nó nên con làm theo lời Thầy dạy, nhẫn nại với vai diễn của mình để học ra bài học giác ngộ. Nhưng con vẫn có cảm giác rằng, nếu mình được đóng một vai diễn hợp với mình, hợp với khả năng, hợp với tính cách của mình thì mình sẽ dễ dàng học ra hơn, ít bì gò bó ức chế hơn. Có phải như vậy không thầy? Khi nhận thức ra điều đó, nếu con chủ động đi tìm một vai diễn khác (dù chưa biết cái đó có hợp với mình không), và dám chấp nhận sự thành bại của một vai diễn mới để tiếp tục bài học giác ngộ thì có phải là hành động của vô minh ái dục không thưa Thầy? Con kính chúc Thầy luôn khỏe mạnh.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Tánh biết là cái mà mỗi người sẵn có khác quá xa với cái gọi là Đại Ngã trường tồn bất biến. Tánh biết biết pháp thì biến hóa vô cùng trên đối tượng vô thường, làm sao mà bất biến được. Tuệ đầu tiên của thiền Vipassanà là thấy chỉ có danh và sắc, không có bản ngã. Sắc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; còn danh là tâm có tánh chất biết pháp nên gọi là tánh biết. Đơn giản vậy thôi sao lại "cảm nhận" ra thành Đại ngã làm gì? (Khi nghe hãy trực nhận ngay điều được nói chứ đừng tưởng tượng rồi so sánh kết luận lăng xăng v.v...). Người không có tánh biết nghĩa là người không có tâm (danh) mà chỉ có thân (sắc) thôi thì khác gì xác chết? Sở dĩ nói tánh biết sẵn có vì người nào mà chẳng có sẵn danh sắc, nếu không có tánh biết sẵn có đó thì lấy gì để tu? Nhưng tánh biết vốn vô ngã nên rất trong sáng. Chính cái ta ảo tưởng che mờ tánh biết nên không phát huy được tánh sáng suốt, định tĩnh, trong lành sẵn có bên trong. Vì vậy mục đích chính của thiền Vipassanà là buông cái ta ảo tưởng đi để tánh biết vô ngã tự soi chiếu thực tánh pháp ngay nơi thân, thọ, tâm, pháp này. Nếu không làm như vậy mà lại đem cái "ta biết" ra tu tập thì tuệ thứ nhất không bao giờ đạt được, làm sao nói đến đắc Đạo đắc Quả gì được!
2) Cuộc sống tự nó không phải là vai diễn, mà là pháp đang vận hành đúng với luật nhân quả duyên báo rất tự nhiên của nó. Cuộc sống là bài học duy nhất của sự giác ngộ, không qua đó mà giác ngộ thì không tìm đâu ra sự giác ngộ ở nơi nào khác. Chính cái ta ảo tưởng lăng xăng phản ứng tạo tác trên cuộc sống đó mới là vai diễn. Vấn đề là có phát huy được sự sáng suốt, định tĩnh, trong lành sẵn có trong tánh biết pháp để loại trừ vai diễn của cái ta ảo tưởng đó đi không, chứ không phải đổi vai diễn này qua vai diễn khác. Bàn ngã đã diễn sai nên tự chuốc lấy ngột ngạt, bây giờ lại tiếp tục sai lầm khi muốn đổi vai diễn khác như ý mình thì thực ra chỉ đổi ngột ngạt này qua ngột ngạt khác mà thôi. Bao lâu còn muốn diễn thì mãi mãi vẫn còn ngột ngạt khôn nguôi!
Câu hỏi:
Thưa Sư. Con xin hỏi:
1. Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ Đức Phật nói đến cả thiền định không hay chỉ thiền tuệ (vipassana) thôi ạ? Trong bài giảng Đại Niệm Xứ phần niệm thân có nói đến phép quán xét bất tịnh hay quán xác chết bị phân hủy dần (phần này cũng được ghi lại khá dài trong kinh), cái này là thiền định hay thiền tuệ ạ? Và khi hành giả thực hành loại thiền này thì cần nhìn trực tiếp hay dùng tranh ảnh tử thi cũng được ạ?
2. Con đọc lại một câu trả lời cũ của Sư trong mục hỏi đáp này Sư có nói đến phép quán niệm hơi thở (16 phép quán niệm hơi thở) là để hóa giải thiền định chứ không phải để tu thiền định an chỉ như nhiều người lầm tưởng. Xin Sư giải thích rõ hơn điều này được không ạ? Phiền não của định an chỉ là gì và tại sao phép quán niệm hơi thở lại có thể hóa giải được nó?
Chúc Sư mạnh khỏe và an lạc ạ.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Kinh Tứ Niệm Xứ chủ yếu là để hành thiền tuệ. Nhưng trong đó có nhiều đối tượng vừa có thể là đề mục thiền tuệ, vừa là đề mục thiền định, chỉ khác nhau về cách hành mà thôi. Vì vậy mà nhiều người không phân biệt được hai cách hành đã sử dụng những đối tượng này như đề mục thiền định mà tưởng là thiền tuệ. Đó là khi hành giả tách rời hai pháp tu định và tuệ ra riêng theo chế định, nhưng trong pháp hành thiền tuệ thì định và tuệ 2 yếu tính không thể tách rời nhau. Giống như mặt hồ yên thì soi rõ cảnh, mặt hồ động thì cảnh vật tan mất. Trong thiền gọi hai công năng này là tịch và chiếu.
2) Khi một người đắc định an chỉ về hơi thở, mỗi lần người ấy hành vipassanà thì một số trạng thái của định lại xen vào làm phát sinh 10 chướng ngại gọi là phiền não của thiền tuệ (xem Thư Thầy Trò (9) trong Thư Viện - Văn). Để thoát khỏi 10 chướng ngại đó, hành giả phải vào lại hành trình niệm hơi thở trong thiền đinh, nhưng đến giai đoạn nào thì phải dùng thiền tuệ quan sát rõ trạng thái đó để thoát ra, không để đắm vào trạng thái đó (sắc ái, vô sác ái), nên gọi là phép hóa giải thiền định.
Câu hỏi:
Thưa Sư con có thắc mắc này. Liệu rằng cái văn tuệ và tư tuệ có chuyển hóa hay giúp đỡ tạo thành tuệ giác thực sự (tu tuệ) không? Hay là cái để tuệ giác xuất hiện phải gạt bỏ hoàn toàn kiến thức và kinh nghiệm thu thập được? Con đọc Krishnamurti thì thấy ông cho rằng mọi kiến thức và kinh nghiệm, trừ những kiến thức trung tính và thực tế như là nhớ đường về nhà hay kinh nghiệm lái xe... thì còn lại đều hoàn toàn là "sở tri chướng" cho cái thấy trực tiếp. Và cái hiểu trí thức của suy nghĩ tư tưởng (tư tuệ?) thì không phải là thấu hiểu chút nào. Con thấy điều này cũng... có lý nhưng liệu có cực đoan không ạ? Hay là đức Phật dùng từ tuệ (panna) hay trí (nana) uyển chuyển và có nhiều nghĩa, nhiều mức độ khác nhau? Xin sư giải nghi cho con vấn đề này.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Văn tuệ có 2 loại: 1) Nhờ thu gom kiến thức mà có. 2) Nhờ nghe mà được khai mở và giác ngộ, như nhiều vị nhờ nghe một câu kệ hay một pháp thoại đức Phật dạy mà đắc đạo quả từ Tu-đà hoàn đến A-la-hán. Như vậy chứng tỏ loại văn tuệ thứ 2 không phải là sở tri chướng. Loại văn tuệ thứ nhất cũng có 2 trường hợp: Nếu kiến thức làm trở ngại cho việc tu chứng thì đó là sở tri chướng. Nếu kiến thức chỉ giúp loại trừ những hiểu biết sai lầm để tiếp cận với thực tánh thì nó hỗ trợ cho việc tu chứng, không phải là sở tri chướng. Nói tóm lại, kiến thức nào mang tính chế định để áp dụng mới trở ngại, còn kiến thức nào mang tính khai mở để thấy thì không trở ngại.
Tư tuệ có hai loại: 1) Nhờ suy tư qua kiến thức mà có. 2) Nhờ suy tư qua tri kiến chân thực mà có. Nếu nhờ tư duy qua thấy biết sự kiện thật tức chánh tư duy thì không trở ngại. Nếu tư duy trên kiến thức chưa được đươc kiểm nghiệm qua thấy biết thật thì sẽ là sở tri chướng. Tư tưởng phát xuất từ bản ngã lý tri không thể gọi là tư tuệ, Chỉ có chánh tư duy mới là tư tuệ thôi.
Tu tuệ cũng có 2 loại: 1) Thủ đắc trí phát sinh từ kinh nghiệm tu tập 2) Vô sư trí là trí tuệ tự nhiên sẵn có của tánh biết. Thủ đắc trí nếu chưa đạt đến vô ngã vô chấp thì vẫn còn có thể là sở tri chướng. Vô sư trí thì không phải là chướng ngại.
Câu hỏi:
Thưa thầy! Vậy có thể nào, một người không cần trải nghiệm thực tế nơi chính mình mà vẫn học được bài học pháp qua kiến thức, qua quan sát những trường hợp xảy ra trong cuộc sống xung quanh, để thấy được nhân quả, sinh diệt, vị ngọt và sự nguy hại của pháp không ạ? Con cảm ơn thầy!
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Có thể "qua kiến thức, qua quan sát những trường hợp xảy ra trong cuộc sống xung quanh, để thấy được nhân quả sinh điệt, vị ngọt và sự nguy hại của pháp" nhưng với điều kiện trong những kiếp trước đã từng trải nghiệm và học ra bài học đó rồi. Do đó trong kiếp này, dù chỉ nghe thấy bên ngoài cũng có thể xuất ly. Nhưng nếu bây giờ vẫn không xuất ly được chứng tỏ là bài học đó chưa học được một cách hoàn toàn.
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, xin thầy giải đáp thắc mắc cho toàn thể anh chị em của con. Thưa thầy, có phải người chết rồi, dù đã siêu thoát và ở cõi nào thì cuối cùng vẫn phải đầu thai phải không ạ? Thời gian từ lúc mất cho đến lúc đầu thai là bao lâu? Làm sao biết được người thân của mình đã đầu thai hay chưa? Và khi đầu thai rồi thì người đó có còn nhớ đến gia đình lúc còn sống không thưa thầy? Chúng con xin cám ơn thầy rất nhiều. Kính chúc thầy có nhiều sức khỏe.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Các con không nên vì người thân yêu quý của mình mất đi mà cứ nghĩ quá nhiều về người đã khuất. Mỗi người ra đi đều theo nghiệp của mình mà tái sanh trong cảnh giới tương ứng. Các con hãy trở về với chính mình để lo tu tập và hồi hướng phước đức cho họ tốt hơn là lo nghĩ vì tình cảm buộc ràng.
Có lẽ từ đầu thai mà con nói ám chỉ sinh lại làm người. Còn từ siêu thoát ở đây chỉ có nghĩa là thoát ra khỏi những cõi khổ như địa ngục, ngạ quỷ, sức sanh, Atula để được tái sanh làm người hay samh trong những cõi an lạc hơn, chứ không ám chỉ giải thoát như các bậc Thánh. Có phải ý con muốn hỏi là người chết dù tái sanh vào cõi nào rồi cũng phải tái sanh lại làm người không? Đúng vậy, trừ các bậc Thánh từ A-na-hàm trở lên, ai rồi cũng phải trở lại làm người để tu tập.
Khả năng nhớ tới kiếp trước trong cõi người rất hiếm. Xác suất cao nhất là những người chết được tái sinh lại làm người ngay. Vì ký ức về kiếp ngay trước đó chưa bị xóa đi bởi thời gian. Phần lớn những người phải trải qua một số kiếp sống khác mới trở lại làm người thì không nhớ được, trừ phi tâm họ đạt được độ ổn định cao.
Câu hỏi:
Thưa thầy, con nghe trong khoá thiền thầy có nói đến "thận trọng" để thấy "sự nguy hại của Pháp". Thầy có thể hoan hỷ giải thích rõ hơn được không ạ? Con cảm ơn thầy và chúc thầy mạnh khoẻ.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Chữ pháp ở đây không cần phải viết hoa như vậy đâu. Chữ pháp này để chỉ vạn pháp hay mọi sự mọi vật. Ví dụ như sân là một pháp. Muốn hết sân thì phải thấy nhân duyên sinh, nhân duyên diệt của nó, và lúc đầu mỗi lần trút được cơn sân là hả dạ lắm, nên gọi là vị ngọt, sau thận trọng quan sát mới thấy sân làm cho rối loạn tim mạch, khí huyết bế tắc, thần kinh căng thẳng, một số hooc-môn tiết ra gây bệnh cho lục phủ ngũ tạng, ăn mất ngon, ngủ không yên v.v... và v.v... mới bắt đầu thấy sự nguy hại của sân. Chỉ khi nào thấy sự nguy hại của một pháp thì mới thoát được sự ràng buộc của pháp đó, không đắm chìm trong pháp đó nữa. Tóm lại, chưa thấy sự nguy hại thì vẫn còn ái dục.