Hỏi Đáp Phật Pháp
Thông báo:
Trong một thời gian dài, mục Hỏi Đáp Phật Pháp của trang web đã nhận được rất nhiều câu hỏi của Phật tử từ khắp nơi gởi đến. Thầy Viên Minh đã trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến vấn đề học Pháp, hành Pháp. Hiện tại mục Hỏi đáp đã có khoảng hơn hai mươi ngàn câu hỏi đáp, trong đó Thầy đã chỉ ra cốt lõi của việc hành đạo, sống Thiền. Do vậy Thầy đã quyết định tạm ngưng mục Hỏi đáp trong một thời gian để có thể chuyên tâm làm các Phật sự cần thiết khác.
Vậy, nếu có nhu cầu, Quý vị có thể sử dụng mục Tìm kiếm bên dưới (gõ từ khoá) hoặc bấm vào các tag đã được gắn theo từng chủ đề để tham khảo các câu Hỏi - Đáp về vấn đề của mình hoặc tương tự.
Sadhu sadhu lành thay!
Danh mục Hỏi Đáp Phật Pháp
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, con đã từng bị điện giật cách đây nhiều năm, từ đó, não bộ của con thường bị căng thẳng và đôi khi không có khả năng tập trung cao. Những lúc như thế, con chỉ biết "đầu hàng" vô điều kiện, buông xuôi hoàn toàn. Khi tu tập pháp của Thầy, con chỉ thả lỏng để lục căn tiếp xúc với lục trần tự nhiên như nó là, từ đó con phát hiện ra lúc nào mình đang sáng suốt định tĩnh trong lành, lúc nào có bản ngã xen vào. Nhưng những lúc não bị căng thẳng do bệnh, con không thể thấy được, không thể quan sát được điều gì. Xin Thầy cho con được hỏi, vấn đề bệnh lý khiến não bộ mất sự minh mẫn có thể được xem là một pháp bình đẳng như các pháp và ta hoàn toàn có thể giác ngộ trên chính pháp đó hay không, hay nó là một trở ngại cho sự quan sát học hỏi các pháp thưa Thầy? Con thành kính tri ân Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Con đã làm rất tốt khi con biết "thả lỏng để lục căn tiếp xúc với lục trần tự nhiên như nó là, từ đó con phát hiện ra lúc nào mình đang sáng suốt định tĩnh trong lành, lúc nào có bản ngã xen vào". Tuy nhiên vẫn còn có chỗ nhầm lẫn nhỏ. Bây giờ con hãy quan sát điều này: khi con buông mọi ý đồ xuống thì tánh biết sáng suốt định tĩnh trong lành tự thấy lục căn tiếp xúc với lục trần một cách tự nhiên và nếu lúc đó bản ngã hay ảo tưởng nào khởi lên con đều biết rõ thì mới đúng. Nghĩa là khi không bị cái ta ảo tưởng với những ý đồ của nó che lập thì tánh biết sẽ thấy tất cả một cách vô ngại. Con nhớ là tánh biết thấy chứ không ai thấy cả. Khi con nói: "Nhưng những lúc não bị căng thẳng do bệnh, con không thể thấy được, không thể quan sát được điều gì" Và con nghĩ rằng đó là do "vấn đề bệnh lý khiến não bộ mất sự minh mẫn". Như vậy là con cho rằng con thấy hay bộ não thấy sao? Hãy chiêm nghiệm lại xem. Khi tình trạng bệnh lý đến, con cứ buông xả tự nhiên. Buông là buông thái độ tâm, đừng cố biết hay cố quan sát gì cả mà hãy để cho tánh biết tự soi chiếu thì tất cả pháp dù ở trạng huống nào vẫn bình đẳng như nhau, không trở ngại tánh biết gì cả. Trở ngại chính là thái độ "ta thấy, ta quan sát, ta muốn biết" chứ không phải là đối tượng của thấy biết. Nhớ là bệnh trạng không làm trở ngại tánh biết đâu con.
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con vẫn chưa có khái niệm rõ phân biệt giữa Sắc Pháp và Danh Pháp. Kính mong thầy phân tích chỉ rõ giúp con. Con xin cảm ơn.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Trong pháp học, sắc pháp và danh pháp nói rộng ra thì thành một bộ Abhidhamma (Vi Diệu Pháp). Nhưng trong pháp hành thì thân và thân hành gọi là sắc pháp, tâm gọi là danh pháp. Cụ thể hơn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gọi là sắc pháp; ý gọi là danh pháp. Hoặc trong ngũ uẩn, sắc thuộc về sắc pháp; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh pháp. Ví dụ khi đi là sắc thân di chuyển đó là sắc pháp, tâm biết được sắc thân đang di chuyển đó là danh pháp. Như vậy, với chánh niệm tỉnh giác thì khi đi chỉ có sắc di chuyển và tâm biết sắc di chuyển chứ không có ảo tưởng ta đi hay ta biết.
Câu hỏi:
Đầu tiên con xin cám ơn Thầy về thư trả lời của Thầy.
Con xin có hai câu hỏi liên quan đến pháp hành kính mong Thầy rộng lòng từ bi giảng giải.
- Câu hỏi 1: Liên quan đến khái niệm về một vị thầy.
Trong hầu hết các tài liệu mà con đã đọc nói về thiền trong Phật giáo, kể cả Thiền tông, Mật tông, và thiền Nguyên thủy đều nhấn mạnh đến vai trò của một vị thầy, xem đó như là một điều kiện tiên quyết cho một người muốn dấn thân vào con đường tu thiền. Điều này đã gây không ít bối rối cho các hành giả cư sĩ tại gia, mặc dù họ có thể tiếp cận được các nguồn kinh sách thông qua mạng lưới thông tin hiện đại như ngày nay, hoặc được nghe các bài pháp thoại từ các giảng sư giàu kinh nghiệm (ví dụ như mạng Trung Tâm Hộ Tông chẳng hạn). Thật ra, trong giới cư sĩ cũng có người được trang bị một trình độ học vấn nhất định, giúp họ có được phương pháp luận khoa học khi tiếp cận vấn đề. Bản thân con mặc dù không trực tiếp được Thầy hướng dẫn nhưng thông qua mạng Internet con cũng tiếp thu được cơ bản nội dung pháp hành mà Thầy muốn truyền đạt. Các thắc mắc cũng đã được Thầy tận tình giúp đỡ tháo gỡ. Như vậy bản thân con xem như đã có một vị thầy chưa? Kính mong Thầy rộng lòng từ bi giảng giải. Việc kề cận một vị thầy còn mang một ý nghĩa tâm linh nào khác nữa không?
- Câu hỏi 2: Liên quan đến cái đau trong hành thiền.
Các thiền sư thường có lối giải thích và cách thức xử lý cơn đau trong lúc tọa thiền rất khác nhau. Bản thân con thì thích vận dụng theo lối tư duy “minh” và “vô minh" của Thầy để giải quyết vấn đề này. Cụ thể như vầy:
- Minh:
(1) Ngồi lâu thì phải đau (qui luật nguyên nhân – kết quả). Không có một tư thế hay oai nghi nào của con người mà không dẫn tới đau khổ, cho dù đó là một tư thế nằm thoải mái nhưng trước sau gì rồi cũng phải thay đổi huống hồ chi là ngồi lâu.
(2) Nhờ tư duy như trên nên tâm ít phản ứng hơn với cơn đau, điều này giúp cho thân tâm dễ kham nhẫn hơn.
(3) Cơn đau là một sự thật (chân đế) nó nằm trong bốn xứ (Thọ) để cho hành giả quán niệm nên không cần thiết phải dùng bất kỳ một phương pháp “Tự kỷ áp thị” nào để quên nó đi.
(4) Khi cơn đau tới hạn chịu đựng thì cứ tại đây, bây giờ thay đổi tư thế (trong thận trọng chú tâm quan sát) mà không một chút lo lắng vì sợ mất “định” .
(5) Thời gian từ lúc ngồi cho tới lúc đau là bao lâu không trọng, vì cơ địa mỗi ngưới khác nhau, ngay cả trong một con người do bị chi phối bởi luật vô thường nên thời gian dẫn tới cơn đau mỗi lúc mỗi nơi cũng khác nhau. Việc ngồi rất lâu mới thấy đau chẳng nói lên một thành tựu nào về giải thoát, mà đó chẳng qua là sự thích nghi của cơ thể theo cơ chế phản xạ có điều kiện.
(6) Con rất thấm thía câu nói của Thầy “Đừng biến hành thiền thành hành khổ”
(7) Đau đớn và an lạc đều là pháp nên tâm quan sát phải bình đẳng. Điều này giúp cho hành giả tiến gần hơn với tâm buông bỏ, xả ly.
- Vô minh:
(1) Đẩy cao cái ngưỡng chịu đựng cơn đau rồi xem đó như một thành tựu thì đó chẳng qua là biểu hiện của tự ngã.
(2) Ở trình độ thấp kém này mà muốn thấy được sự sanh diệt trong từng sát-na của cơn đau như có thiền sư từng giải thích thì vô minh.
(3) Khi tâm quan sát không còn rỗng lặng trong sáng mà cứ muốn tiếp tục quan sát cơn đau trước sau gì cũng dẫn tới tham sân.
Con hiểu như vậy thưa thầy có đúng không? Kính mong Thầy rộng lòng từ bi giảng giải. Con xin cám ơn Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Ngày xưa chưa có phương tiện truyền thông nào khác ngoài phải đi, nhiều khi rất xa, để tìm thầy học Đạo, hoặc ít nhất cũng đi hành cước để tham vấn xem sở tu sở chứng của mình đã thuận Pháp chưa. Ngày nay vai trò vị thầy chính là những nguồn thông tin giúp mình học Đạo, như kinh điển, pháp thoại audio, video v.v... Và để kiểm tra sở tu sở chứng của mình thì có thể gặp thầy qua điện thoại, internet có gắn camera là thầy trò có thể đối diện trình thiền hỏi Pháp thoải mái. Vậy không tiện hơn sao? Tin, học và hành theo một vị thầy có thể sai, lại phải đi tìm vị khác xa xôi, chi bằng cứ nghiên cứu học hỏi cho sâu rộng rồi khi đã có đủ trình độ nhận thức mới thấy vị thầy nào hay cứ đến tham vấn. Quan trọng là khai mở, giác ngộ, chứ không phải là hành theo vị thầy nào. Các vị Phật Độc Giác không học ai cũng vẫn tự mình giác ngộ thì có sao đâu. Tất nhiên vai trò vị thầy theo nghĩa rộng, hoặc thiện bằng hữu, thiện trí thức là những sự hỗ trợ rất cần thiết trên đường học Đạo. Nhưng cuối cùng vô sư trí vẫn là vị thầy tối hậu của mỗi người. Đức Phật đã xác định là sau khi Như Lai viên tịch Tứ Chúng nên nương tựa vào Pháp chứ không nên nương tựa vào vị thầy nào. Pháp (thực tánh) sẵn có nơi mỗi người, hãy quay lại mà thấy (Ehipassiko), không phải tìm đâu xa, không do vị thầy nào ban tặng. Cho nên Đức Phật mới dạy "Tự mình là nơi nương nhờ của chính mình, không ai khác là nơi nương nhờ được" (Attàhi attano nàtho, ko hi nàtho parosiyà).
2) Những điều anh nhận thức trong câu hỏi 2 đều đúng, nếu như đó không phải phát xuất lý luận thuần lý trí mà từ thấy biết qua trải nghiệm thật sự trên thực kiện. Chúc mừng anh.
Câu hỏi:
Thưa thầy! Trong thời gian gần đây con gặp một hiện tượng lạ nên muốn hỏi thầy. Trong giấc ngủ, thình thoảng toàn thân con có cảm giác "bừng bừng" tỉnh. Mặc dù khi đó con đang ngủ, nhưng con biết rất rõ toàn thân. Cảm giác này "rất rõ ràng" từ đầu đến chân. Hiện tượng này xuất hiện và kết thúc trong vài phút. Khi đó nếu con thích thú chú ý hoặc ngắm nhìn thì sau khi hết, con có cảm giác hơi căng thẳng và đau đầu. Nhưng cũng có một số lần con không đau đầu. Vậy đây có phải là hiệu ứng của pháp hành thiền tuệ không ạ? Con xin thầy cho con lời khuyên ạ. Con cảm ơn thầy nhiều ạ!
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Điều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố mới biết nó phát xuất từ đâu. Ví dụ như quá trình hành thiền tuệ như thế nào, Cảm giác "rất rõ ràng" là cảm giác thoải mái tự nhiên hay có kèm theo phản ứng phụ gì. Giấc ngủ có một loại hoạt động vô nhân của ý giới, nó là một dạng "ý thức" mà Duy Thức Học gọi là mộng trung ý thức. Nói chính xác theo Phân Tâm Học thì nó không hẳn là ý thức cũng không hẳn là vô thức. Dưới hình thức một giấc chiêm bao, nó tái tạo hoạt động của ý thức ban ngày nhưng tự động điều chỉnh sắp xếp lại cho đúng những gì mà ý thức chủ quan của bản ngã đã nghĩ và làm sai. Có những bài toán không giải được ban ngày thì trong giấc ngủ lại giải được. (Tất nhiên cũng có những giấc chiêm bao hư cấu để khẳng định hay biểu lộ bản chất của bản ngã ý chí ban ngày thôi chứ không điều chỉnh nội dung). Tánh biết (tâm) có một khả năng kỳ diệu rất tích cực là khả năng tự động điều chỉnh, cả trong hữu thức lẫn vô thức. Cái biết của vô thức rất "huyền bí" nó hỗ trợ cho cái biết hữu thức rất nhiều. Nếu là hữu thức trí tuệ vô ngã thì rất tốt, nhưng là hữu thức lý trí bản ngã thì chính là kẻ phá hoại tính tự động điều chỉnh kỳ diệu này của tánh biết trong vô thức. Tất nhiên vô thức này là hoạt động trong bhavanga, chứ không phải là vô thức theo nghĩa không ý thức của tâm si.
Đừng xác định gì cả, cứ để vậy mà chiêm nghiệm xem nó cho con bài học gì. Ví dụ như nó cho biết niệm thân là thấy rõ toàn thân như nó là một cách tự nhiên, chứ không phải cố gắng chú ý ngắm nhìn hay tìm kiếm điều gì trong đó một cách chủ quan.
Câu hỏi:
Thưa thầy, con có được nghe thầy thuyết Pháp vài lần. Nhưng trước đó, con cũng học được rất nhiều từ sách của thầy cũng như các vị thiền sư nổi danh như Ngài U. Jotika, Ngài Pandita, Ngài Achan Cha... Có nhiều điểm con không tán đồng. Rồi sau vài năm thực hành miên mật, và đọc lại kinh điển, nhiều điểm con đồng ý kiến, nhưng có những điểm khác con vẫn thấy Đức Phật đúng hơn. Vậy là sự thấy biết của mỗi hành giả là khác nhau và cũng thay đổi liên tục phải không ạ?
Nếu mình chấp vào một kinh nghiệm nào đó, hoặc một vị thầy nào đó, hay ngay cả kinh điển là một sự không sáng suốt phải không ạ?
Theo như con thì, ngay cả học kinh điển cũng cần phải đọc trọn vẹn cả ít nhất cũng là 2 tạng hoặc tốt thì cả 3 tạng luôn, cùng vớí sự thực hành chăm chỉ dài dài, may ra mới có sự hiểu biết tạm thời nào đó phải không ạ?
Con xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy. Kính chúc thầy dồi dào sức khỏe.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Đúng vậy, như thầy thường nói tu học là qua trình điều chỉnh nhận thức và hành vi, nên cuối cùng bậc Đại Giác được xưng tán là bậc Minh Hạnh Túc, nghĩa là trí tuệ và đức hạnh đã hoàn chỉnh. Thực ra Kinh Điển và các vị thiền sư chỉ gợi ý để mỗi người tự khám phá ra sự thật. Lúc đầu lý trí phân biệt đúng sai theo kiến thức, quan niệm, tư tưởng hay bảng giá trị nào đó, rồi trải nghiệm qua tri kiến thực tế, người ta điều chỉnh dần những sai lầm để nhận thức và hành động đúng hơn.
Nếu đứng về LÝ mà nói thì KInh Điển là tiêu chuẩn đúng nhất, ý kiến của các vị thiền sư cũng chỉ là mức độ nhận thức và kinh nghiệm giới hạn của những vị ấy. Tuy nhiên đó là những bằng chứng cụ thể giúp chúng ta khám phá ý nghĩa của Kinh Điển dễ dàng hơn. Mỗi vị thiền sư có thể giúp chúng ta thấy ra một khía cạnh của chân lý muôn màu muôn vẻ. Có điều cả Kinh Điển lẫn các thiền sư đều không thể giúp chúng ta thấy hết sự thật. Đó chỉ là bản vẽ khái lược hay những tấm gương điển hình (sample) thôi, chưa phải là sự thật trọn vẹn. Mỗi người phải tự mình khám phá sự thật trọn vẹn ấy ngay trong sự tương giao của đời sống.
Như vậy, về SỰ thì Kinh Điển và các vị thiền sư đã khai sáng và giúp chúng ta vững tin hơn trên đường Đạo, nhưng sự trải nghiệm trong đời sống thực mới giúp chúng ta thể nghiệm được sự thật đó một cách cụ thể, chính xác và toàn diện. Lúc đã khám phá ra LÝ TRONG SỰ và SỰ TRONG LÝ thì chúng ta dễ dàng thấy được điều nào đúng điều nào sai, trong Kinh Điển, ở các vị thiền sư, và ngay nơi chính mình. Vậy đừng vội kết luận đúng sai, cứ khám phá thực địa rồi tự mình sẽ thấy.
Câu hỏi:
Kính thưa thầy! Có 1 nhà Sư nói với con rằng: những người đã quá vãng rất sợ người thân của mình bỏ rơi vào dịp năm hết Tết đến, nên gia đình cần làm lễ cầu siêu vào cuối năm để hồi hướng công đức đến họ vào dịp cuối năm là rất tốt. Vậy con kính xin thầy hoan hỉ cho con biết như vậy có đúng không? Vì con cho rằng sau khóa lễ hàng ngày con vẫn thường hồi hướng cho người thân đã quá vãng nên việc làm như nhà Sư kia nói cũng không cần thiết lắm, phải không thưa thầy? Con kính chúc thầy luôn an lạc!
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Có thể là trong những dịp đặc biệt như lễ giỗ, lễ Báo Hiếu, lễ Dâng Pháp Y, lễ Tết, lễ Thượng Ngươn, Hạ Ngươn v.v. người quá vãng mong đợi thân nhân hồi hướng phước đến họ, nên người dân cũng có lý khi cúng vào những dịp lễ này. Nhưng nếu ngày nào cũng hồi hướng phước cho họ thì càng tốt hơn. Giống như ngày nào cũng phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ mọi người tốt hơn là lâu lâu có dịp mới biếu xén, hay mở tiệc mời. Vì người đời không có dịp chăm sóc người thân mỗi ngày nên nhân có lễ lạc gì lớn thăm viếng chăm sóc họ cũng là điều tốt.
Câu hỏi:
Thưa Thầy, cho con hỏi, ba con mới mất được 2 năm, theo mẹ con kể thì khi còn trẻ ba làm 1 số điều sai trái, nên khi ba mất con rất sợ ba con sẽ bị đau khổ, khi nào làm điều thiện con đều hồi hướng cho ba nhưng bản thân con, con nhận thấy chưa đủ tốt thì sao con có thể hồi hướng cho ba con? Và thưa thầy cho con hỏi, khi mình làm điều thiện thì có thể hồi hướng cho người thân không ạ? Người thân có nhận được phần phước đó không? Xin Thầy chỉ dạy cho con. Con xin thành tâm tri ân Thầy. Kính chúc sức khỏe Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Hồi hướng cho người thân phải do tâm lực và phước lực mới được. Con đừng có mặc cảm là mình chưa tốt. Dù chưa tốt nhưng khi con làm phước và thành tâm thì vẫn có phước lực và tâm lực để hồi hướng. Hồi hướng là bổn phận của con cái đối với cha mẹ còn được hay không còn tùy vào duyên nghiệp của người nhận. Dù sao nếu ba con hoan hỷ với phước và tâm thành hồi hướng của con thì đương nhiên là được. Đừng nghĩ việc phước lớn hay nhỏ mà có tâm thành thì ắt có cảm ứng.
Câu hỏi:
Thưa Sư, con trích một đoạn trong Sống Trong Thực Tại ở mục thư viện nhờ Sư giải thích thêm:
"Trong thiền Vipassanā, chánh niệm tỉnh giác là hai yếu tố cốt lõi, nhưng nếu thiếu tinh tấn thì vẫn không đủ lực để thể hiện giác niệm một cách đúng mức cần thiết cho sự quán chiếu trung thực."
Con thắc mắc là đa phần các cố gắng và nỗ lực là tạo tác hữu vi của bản ngã. Vậy thì năng lượng của chánh tinh tấn này được lấy từ đâu? (Vì năng lượng của tà tinh tấn lấy từ bản ngã và ham muốn thành tựu hay loại bỏ cái gì đó của thực tại).
Con thấy vấn đề "tinh tấn" hay cố gắng này rất tinh tế. Xin Sư giải thêm cho con và các bạn đồng đạo được tỏ tường.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Thầy sẵn lòng trả lời những câu hỏi khi đã suy tư chiêm nghiệm hết sức mà vẫn không tự giải nghi được, lúc đó thầy chỉ gợi ý một chút thôi là thấy ngay. Thầy đã nói đừng học đạo để thỏa mãn lý trí. Một câu trả lời thật rành mạch cũng không giúp con giác ngộ được đâu, hãy tự mình khám phá thể nghiệm để thấy ra sự thật, không nên tìm lời giải nơi kinh điển hay bất kỳ vị thầy nào. Thầy nghĩ là con chưa đọc hết chương 5 nói về tinh tấn, hoặc con chỉ đọc phớt qua, rồi lại thắc mắc chính những điều mà thầy đã nói rõ trong đó, và trong các buổi giảng thầy cũng đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần. Vậy có lẽ đã đến lúc tự con phải khám phá tinh tấn là gì mới được. Hãy tinh tấn lên đừng quá lười biếng giao khoán cho ngôn từ vay mượn từ một xác định của người khác như vậy. Kinh điền và thầy chỉ có nhiệm vụ gợi ý cho con tự thấy thôi.
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con có vài thắc mắc, xin thầy vui lòng giải đáp cho con:
1. Con người lúc còn vô minh thì có bản ngã. Khi mạng chung, mất thân người, bản ngã vẫn còn hay không?
2. Các loại thực vật vẫn có cái biết theo bản năng mà không có tham sân si, vậy có phải cây cỏ luôn sống trong Niết-bàn không?
3. Những loài vật thông minh vẫn có tánh biết, vậy có thể nói loài vật cũng có Phật tánh hay không?
4. Con người theo lục đạo luân hồi mà tái sanh, phải chăng con người đánh mất Phật tánh của mình khi tái sanh vào các cõi thấp hơn?
Con xin cám ơn Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Trong khóa giảng lần 5 tại Bửu Long, ở ngày đầu tiên (Ngày 1A - Cái thực) thầy đã có nói rất rõ về những vấn đề này rồi, con vào mục Pháp Thoại để nghe nhé. Ở đây thầy chỉ trả lời vắn tắt thôi.
1) Khi sống có chấp ngã thì khái niệm ngã đã được ghi sâu trong tiềm thức Bhavanga hay Duy Thức gọi là A-lại-da thức, nên dù chết khái niệm bản ngã vẫn còn như hạt giống, và hạt giống đó sẽ có cơ hội tái hiện sau khi tái sinh.
2) Bài kệ sau đây sẽ thay thầy giải đáp câu hỏi của con:
Chư Pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng Oanh đề liễu thượng
3) Triệu Châu trả lời là "VÔ" (Chừng nào con ngộ chữ VÔ ấy của Triệu Châu thì đó chính là câu trả lời, còn bây giờ thầy nói cũng vô ích thôi)
4) Nếu không có Phật tánh đương nhiên là ... không mất, còn nếu đã có Phật tánh thì con nói mất cái gi?
Những câu hỏi này không có câu trả lời để thỏa mãn lý trí đâu. Hãy tự khám phá sự thật, sẽ thú vị hơn là chỉ dựa vào nhận thức của người khác.
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con xin hỏi:
Chiêm nghiệm lại "bản vẽ" của mình từ hiện tại trở ngược về những gì đã xảy ra trong quá khứ, để nhìn ra bản ngã được tạo thành ra sao, để thấy rõ mình đã tham sân si ra sao..., từ đây sự hình thành của bản ngã được nhận rõ..., có phải việc làm nầy là chánh tư duy không?
Có cần làm điều nầy mới đánh bật được gốc của bản ngã và vô minh ái dục không? Chúc Thầy sức khỏe tốt.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Nhớ lại quá khứ là một chức năng tự nhiên xuất hiện khi cần đến. Nhưng không cần phải chủ tâm "trở ngược về những gì đã xảy ra trong quá khứ, để nhìn ra bản ngã được tạo thành ra sao". Bởi vì không chừng ý đồ trở về này cũng phát xuất từ bản ngã. Chỉ cần nhận ra cái ta trong hiện tại thì tự nhiên thấy ra nó trong quá khứ đã diễn biến như thế nào. Nói là "chiêm nghiệm" nhưng thực ra chỉ chiêm nghiệm thật sự khi lắng nghe quan sát thực tại đang là, vì chỉ có thể nhớ lại quá khứ để suy ngẫm chứ không thể chiêm nghiệm quá khứ được. Đúng nghĩa từ chiêm nghiệm là quan sát sự kiện đang trải nghiệm. Nếu lo nhớ lại quá khứ để suy ngẫm thì không thể phát hiện được cái ta đang hiện hành ra sao, như vậy làm thế nào mà đánh bật được gốc của bản ngã? Chánh tư duy chỉ có khi có chánh tri kiến trên sự kiện thực tại. Thực tại đó có thể là một hình ảnh quá khứ đang tái hiện tự nhiên. Nhưng tự ý tư duy về quá khứ để tìm tòi thì đó không phải là chánh tư duy mà chỉ là hoạt động của lý trí, phần lớn hoạt động này là vọng niệm. Do đó, đức Phật dạy: "Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây" vậy.